“Tiếng Việt từ TK 17: số đếm và thanh điệu” (phần 48A)

      Nguyễn Cung Thông(1)

Phần này bàn về thanh điệu trong số đếm từ thời các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo, đặc biệt là qua dạng chữ quốc ngữ từ thời bình minh của loại chữ này. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ). Sau đó bàn thêm về các số đếm lớn hơn như trăm, nghìn (ngàn), muôn (man, vạn, vàn) và vết tích của chúng qua các tài liệu cổ đại, đặc biệt là qua cấu trúc chữ Hán theo thời gian.

Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu bằng chữ Nôm của LM Maiorica như bộ Các Thánh Truyện, Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông … Các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.

Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), ĐNA (Đông Nam Á), LM (Linh Mục), CG (Công Giáo), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), P (tiếng Pháp), A (tiếng Anh), L (tiếng La Tinh), VNTĐ (Việt Nam Tự Điển/Hội Khai Trí Tiến Đức)…v.v… Kí viết là ký (tên người, tên sách) và trang/cột/tờ của VBL được trích lại từ bản La Tinh để người đọc tiện tra cứu thêm.

Tương quan Hán Việt ghi nhận trong bài không nhất thiết khẳng định nguồn gốc của các từ liên hệ (có gốc Việt cổ hay Hán cổ, Khme cổ …). Trước hết, hãy xem một thí dụ về số đếm đơn giản như số 5 (5 ngón tay, 5 ngón chân) trong vài ngôn ngữ quen thuộc. Để diễn tả một đơn vị khối lượng nhỏ có thể chứa trong lòng bàn tay thì tiếng Anh dùng danh từ handful: hand là bàn tay, -ful là đầy (full) hàm ý đầy bàn tay. Tương tự như thế, tiếng Pháp cũng dùng danh từ poing (bàn tay, Old French) để cho ra dạng poignée …v.v… Khác với loại hình ngôn ngữ chắp dính hay hoà kết (td. Anh, Pháp …), tiếng Việt là ngôn ngữ có thanh điệu nên dùng số 5 hay năm, rồi thêm vào thanh sắc để cho ra dạng nắm (> núm, nạm) hay nhắm (VBL, xem hình bên dưới): một nắm gạo, nắm xôi … Ngoài ra, nắm còn là động từ dùng bàn tay để giữ chặt lại. Các phụ âm đầu lưỡi n – đ có thể hoán chuyển cho nhau để từ nắm cho ra (cú) đấm. Trong ngữ hệ Nam Đảo (Austronesian), rất thường gặp cách dùng danh từ chỉ số năm (lima, rima) để chỉ (cái) tay.

  Một nắm gạo           A close up of a text

Description automatically generatedVBL trang 503

Có thể nói thanh điệu là đặc trưng và ‘linh hồn’ của tiếng Việt, nhưng để phân biệt rõ ràng các thanh điệu, td. bằng các cách kí âm qua chữ viết chẳng hạn, thật không đơn giản. 

(1) Nghiên cứu ngôn ngữ độc lập ở Melbourne (Úc) – email nguyencungthong@gmail.com

Bình luận về bài viết này