Tiếng Việt từ TK 17: các cách dùng đầu rau, các cơm, ghế cơm, nhà vưng/bếp, lò, vua bếp/táo quân (phần 51)

Nguyễn Cung Thông 1

Phần này bàn về các cách dùng đầu rau, các cơm/thổi cơm, ghế cơm, nhà vưng/bếp, lò, vua bếp/táo quân, câm lốc từ TK 17.

Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn so với các dạng chữ Nôm cùng thời. Ngoài ra, phần này bàn rộng ra hơn về các cách dùng bếp, nằm bếp, truyền thuyết Táo quân cũng như sự biến mất đặc biệt của đầu rau trong xã hội Việt Nam ngày nay..

Tiếp tục đọc “Tiếng Việt từ TK 17: các cách dùng đầu rau, các cơm, ghế cơm, nhà vưng/bếp, lò, vua bếp/táo quân (phần 51)”

“Lẫn lộn (‘ngọng’) n – l qua lăng kính tiếng Việt từ TK 17 và mở rộng” (phần 32C)

      Nguyễn Cung Thông

Phần này bàn về khuynh hướng lẫn lộn (có người gọi là ngọng) n – l trong tiếng Việt từ TK 17. Phần này đánh số là 32C vì tiếp theo hai bài viết phần 32 và phần 32B trước đây.

Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn so với các dạng chữ Nôm cùng thời. Ngoài ra,  phần này sẽ bàn rộng ra để cho thấy lẫn lộn n – l có thể là một hiện tượng vùng miền (areal feature/A), đặc biệt là từ góc độ lịch đại cho thấy đóng góp của khuynh hướng lẫn lộn n – l vào quá trình hình thành tiếng Việt mà ít người biết đến.

Tiếp tục đọc ““Lẫn lộn (‘ngọng’) n – l qua lăng kính tiếng Việt từ TK 17 và mở rộng” (phần 32C)”

Cô bé trên mái nhà sàn

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

Truyện ngắn

Cô bé Lò Thị Chang đã sống ở chỗ cao nhất trên mái nhà sàn của một gia đình Thái đen gồm 5 người suốt ba ngày đêm. Nước lũ ngập vào bản em từ hôm ấy đến tối nay chỉ rút được chút ít, rồi như trêu ngươi, làm lộ rõ hơn các mái nhà sàn và các ngọn cây cao đang chơi vơi tô điểm cho những xác trâu bò, gà lợn nổi lềnh phềnh – tựa cuộc “trình diễn” chưa bao giờ có của bản em giữa đất trời xám xịt…

Tiếp tục đọc “Cô bé trên mái nhà sàn”

Đề nghị không mời nghệ sĩ ‘lệch chuẩn văn hóa’ dự sự kiện TP HCM

Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy TP HCM đề nghị cân nhắc không mời nghệ sĩ có ca khúc trái thuần phong mỹ tục, lệch chuẩn văn hóa, dự sự kiện của thành phố.

Công văn ngày 24/10 gửi đến Sở Văn hóa và Thể thao TP HCM, Hội Âm nhạc, các thành viên Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học nghệ thuật và các cơ quan báo chí, đề nghị định hướng, chấn chỉnh hoạt động âm nhạc.

Tiếp tục đọc “Đề nghị không mời nghệ sĩ ‘lệch chuẩn văn hóa’ dự sự kiện TP HCM”

Khi rừng cộng đồng chưa thực sự thuộc về cộng đồng

Với anh chị em đồng bào thiểu số ở rừng núi của chúng ta, rừng là cha, là mẹ và là đấng rất mực thiêng liêng. Có lẽ không có ai hiểu rừng và yêu rừng bằng họ. Mấy ngàn năm nay, con cháu của 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên núi đã duy trì danh tiếng gìn giữ và phát triển rừng rất tốt. 

Nay chúng ta đã có luật để cộng đồng (dân tộc thiểu số) làm chủ rừng, thì hãy để cộng đồng làm chủ rừng thật sự, thay vì “cộng đồng làm chủ, Nhà nước quản lý”, và Nhà nước cho doanh nghiệp phá rừng làm “dự án” mà không hỏi ý kiến của cộng đồng chủ.

Các cộng đồng dân tộc thiểu số đã là chủ rừng mấy ngàn năm nay, vậy chúng ta hãy tôn trọng truyền thống lâu đời đó.

PTH

  • Vi Chring: Khi rừng cộng đồng chưa thực sự thuộc về cộng đồng
  • Làm gì để cộng đồng thực sự thành chủ rừng, được hưởng lợi từ rừng?
  • Nhìn lại mô hình cộng đồng tham gia quản lý rừng:
    Bài 1: Hiệu quả từ sự chung tay
    Bài 2: Nhiều vướng mắc trong giao rừng

***

Vi Chring: Khi rừng cộng đồng chưa thực sự thuộc về cộng đồng

nature.org – 15/10/2020

Vi Chring - khi rừng cộng đồng chưa thực sự thuộc về cộng đồng -  ThienNhien.Net | Con người và Thiên nhiên

Từ năm 2007, cộng đồng thôn Vi Chring (xã Hiếu, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum) được giao quản lý, bảo vệ 808 ha rừng sản xuất là rừng tự nhiên. Gần 15 năm trôi qua, họ đã bỏ ra không ít công sức miệt mài canh giữ với niềm tin sẽ được hưởng lợi từ rừng. Thế nhưng, bên cạnh một số hỗ trợ tài chính từ các dự án phi lợi nhuận và từ chính phủ, nhân dân thôn Vi Chring vẫn chưa được khai thác bền vững để thực sự hưởng lợi từ rừng.

Trong khi đó, việc thu hồi 9,87 ha rừng cộng đồng Vi Chring để xây dựng đường dây 500 kV mạch 3 đã cho thấy số phận mong manh của các khu rừng cộng đồng. Một mặt, người dân không được tiếp cận với phần gỗ vốn thuộc về họ được khai thác từ hành lang an toàn điện, nhưng mặt khác, một doanh nghiệp lại được giao tận thu gỗ, để rồi ngang nhiên tận thu cả vào phần rừng nằm ngoài phạm vi cho phép.

Tiếp tục đọc “Khi rừng cộng đồng chưa thực sự thuộc về cộng đồng”

Thiếu hụt bác sĩ ở vùng sâu, vùng xa

Không phải vùng sâu vùng xa thiếu chuyên gia chăm sóc sức khỏe. Anh chị em đồng bào thiểu số của chúng ta bao ngàn năm nay vẫn có chuyên gia chăm sóc sức khỏe cho họ, chỉ là người Kinh chúng ta không công nhận trí tuệ của họ mà thôi.

Với người Kinh, Tây y (và Đông y) là đỉnh cao trí tuệ. Thế nên những Êđê y, Dao Đỏ y, Chăm y… đều là thuộc dạng mà “bác sĩ” Kinh ta lắc lắc đầu: “Đây là vấn đề sống chết, không thể bừa phứa được”.

Nhà nước hãy để già làng/ trưởng bản công nhận những người trong thôn/ xóm/ bản làng có khả năng chịu trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho cả cộng đồng đó.

Hãy tôn trọng cách sống của anh chị em đồng bào mình, đồng thời giúp cho nền y học của nước nhà được phong phú hơn.

PTH

***

Đồng Nai thiếu bác sĩ

SGGPO – 06/08/2025 16:25

Ngành Y tế tỉnh Đồng Nai đang đối mặt với tình trạng thiếu nguồn nhân lực y tế, nhất là ở các xã vùng sâu, vùng xa và biên giới. Do đó, địa phương có nhiều chính sách đào tạo, hỗ trợ và thu hút y bác sĩ về cơ sở y tế làm việc, nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và chăm lo sức khỏe người dân.

Tiếp tục đọc “Thiếu hụt bác sĩ ở vùng sâu, vùng xa”

Tại sao Việt Nam lại không phát triển được như Hàn Quốc và Nhật Bản mặc dù có nguồn tài nguyên tương đương với hai nước này? – Why did Vietnam fail to develop like South Korea and Japan despite having similar resources as these two countries?

SOURYU 蒼龍 · 

Kỹ sư Thiết kế Điện tử và Kết cấu (2003–nay)Cập nhật 1 năm trước http://www.quora.com

Câu trả lời này có thể hơi phản cảm.

Là một kỹ sư, tôi đã có dịp tiếp xúc với công nhân Việt Nam trong một nhà máy cách đây 20 năm. Phải nói rằng người Việt Nam, đặc biệt là đàn ông Việt Nam ở miền Nam, có tính cách rất giống với công nhân Ấn Độ. Thiếu tinh thần chuyên nghiệp, không thích tuân thủ kỷ luật, thích nói khoác, hiệu suất lao động thấp (tốt hơn người Ấn Độ), và thích tìm lý do bào chữa cho thất bại của mình. Họ cũng giỏi bịa ra những tai nạn không có thật để lừa đảo công ty tiền bồi thường. Họ thích cờ bạc, và một số người có thói quen uống rượu không tốt.

Các quan chức Việt Nam và Ấn Độ cũng rất giống nhau, tham nhũng hơn nhiều so với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Tuy nhiên, phụ nữ Việt Nam rất chăm chỉ và tốt bụng, và tôi nghĩ rằng đại đa số đàn ông Việt Nam không xứng đáng với họ.

Tiếp tục đọc “Tại sao Việt Nam lại không phát triển được như Hàn Quốc và Nhật Bản mặc dù có nguồn tài nguyên tương đương với hai nước này? – Why did Vietnam fail to develop like South Korea and Japan despite having similar resources as these two countries?”

“Tiếng Việt từ TK 17: một số cách dùng như đạo bụt, giáo bụt … kiếp, nghiệp, kệ, pháp môn, mục liên, tì lô …” (phần 50B)

Nguyễn Cung Thông

Phần này bàn thêm về một số cách dùng Phật giáo từ các tài liệu chữ quốc ngữ vào TK 17 – hay từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo: đạo bụt/tượng bụt, giáo bụt … kiếp, nghiệp, kệ, pháp môn, mục liên, tì lô, mục/mộc mỗi …

Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn so với các dạng chữ Nôm cùng thời, cũng như thông tin về một số sinh hoạt xã hội/tôn giáo từ những nhân chứng lịch sử (mắt thấy tai nghe).

Tiếp tục đọc ““Tiếng Việt từ TK 17: một số cách dùng như đạo bụt, giáo bụt … kiếp, nghiệp, kệ, pháp môn, mục liên, tì lô …” (phần 50B)”

Kỳ thị và xâm phạm truyền thống văn hoá của các tộc người theo mẫu hệ

Tóm lại, ở các tộc người ấy vì nam giới “không có quyền, nên không có trách nhiệm”. Cho nên, những bà vợ của họ “càng có quyền càng khổ”. Lối giải thích này tạo một ấn tượng sai lạc rằng trong các cộng đồng mẫu hệ thì “chị em ta” là nhất, “bọn đàn ông” chẳng có ký lô nào! Tai hại hơn, nó biến những người đàn ông thiếu ý thức trách nhiệm, bê tha rượu chè, làm khổ vợ con thành những người đáng được cảm thông, và biến chế độ mẫu hệ thành kẻ tội đồ!

Trong khi sự thật là dù trong chế độ mẫu hệ hay phụ hệ thì quan hệ, đời sống và hạnh phúc gia đình tốt hay xấu, trước hết là do ở con người. Nếu nói trong chế độ mẫu hệ giới đàn ông vì “không có quyền nên không có trách nhiệm” thì chẳng lẽ dưới chế độ phụ hệ, tất cả đàn ông, với quyền lực trong tay, đều rất có tinh thần trách nhiệm đối với cuộc sống gia đình?

Với những cách hiểu, cách giải thích, cách đánh giá như vậy, sẽ không phải là điều lạ nếu có ai đó trong những người hoạch định, thừa hành pháp luật, chính sách có ác cảm và có cách đối xử sai lầm đối với chế độ mẫu hệ của các tộc người thiểu số. Chẳng thế mà trong Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số, người ta đã đưa tập quán “Người con bị bắt buộc phải mang họ của người mẹ” của chế độ mẫu hệ vào danh mục “Các phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình cần vận động xoá bỏ” (Phụ lục B).

Theo chúng tôi, dù chỉ là “vận động xoá bỏ” chứ không phải là “nghiêm cấm”, quy định đó cũng thể hiện một cái nhìn kỳ thị và xâm phạm truyền thống văn hoá của các tộc người theo mẫu hệ.

(Trích Nam quyền trong chế độ mẫu hệ ở Việt Nam)

  • Nam quyền trong chế độ mẫu hệ ở Việt Nam
  • Danh mục các tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình

Tiếp tục đọc “Kỳ thị và xâm phạm truyền thống văn hoá của các tộc người theo mẫu hệ”

Tác Phẩm Thái Công Tụng

alt



Các bài viết của GS. THÁI CÔNG TỤNG

Huong Pham <nhuthuong1975@gmail.com>

(Update Jan. 5, 2018)
​Xin phổ biến/đăng tải rộng rãi.
Rất đa tạ.
Thay mặt Anh Em nhóm Lymha,
Hà Trung Liêm​

CÁC BÀI VIẾT CỦA GIÁO SƯ THÁI CÔNG TỤNG ĐƯỢC ĐĂNG TẢI TẠI TRANG BLOG MEKONG-CUULONG.
(Để đọc bài xin bấm vào đường kết nối màu xanh)

1. Sông ngòi miền Bắc Việt Nam

2. Sông ngòi miền Trung

3. Sông ngòi miền Cao Nguyên Việt Nam

4. Đặc tính các vùng sinh thái miền Châu thổ sông Cửu Long

5. Rừng, lá phổi của nhân loại

6. Ngỡ lòng mình là rừng

7. Nước và con người

8. Năng Lượng Xanh

9. Môi trường và phát triển bền vững

10. Cao nguyên phố núi cao phố núi mù sương

11. Bình Trị Thiên: môi trường tự nhiên và hướng phát triển

12. Hoạch định và phát triển nông nghiệp dựa vào các vùng thiên nhiên ở Nam Việt Nam – Tập san Sử Địa, tập 25, 1/3/1973

13. Các đại tuyệt chủng sinh vật trong lịch sử điạ chất

CÁC BÀI KHẢO CỨU CỦA GIÁO SƯ THÁI CÔNG TỤNG ĐƯỢC LƯU GIỮ TẠI KHO GOOGLE DRIVE CỦA NHÓM  LYMHA
(Để đọc bài, xin bấm vào đường kết nối màu xanh)

14. Miền Nam

15. Non cao tuổi vẫn chưa già

16. Khí hậu và con người trong thi ca Việt

17. Quyển sách của thầy tôi

18. Chữ Tâm trong văn học Việt

19. Biến Đổi Khí Hậu Và Con Người

20. Biển và con người

21. Góp phần biến đổi Việt Nam qua tác phảm tình tự với thiên nhiên và cuộc sống

22. Lửa, một yếu tố của Tứ Đại

23. Một ngàn ngày trên triền núi Himalaya

24. Thế giới thực vật qua thi ca Việt Nam

25. Thực vật trong văn hóa Phật giáo

26. Tìm hiêu sinh thái nhân văn trong gia đình Việt Nam

27. Hỡi anh đi đường cái quan

 “Tiếng Việt từ TK 17: một số cách dùng Phật giáo như đạo bụt/tượng bụt/lạy bụt/thờ bụt so với bút … luân hồi, vô thường  …” (phần 50)

Nguyễn Cung Thông

Phần này bàn về một số cách dùng Phật giáo từ các tài liệu chữ quốc ngữ vào TK 17 – hay từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo: đạo bụt/tượng bụt, lạy bụt, thờ bụt, nặn bụt, khấn bụt, chú bụt, bắt bụt … cột phướn làm chay, luân hồi, Thích ca, vô thường, đi tu, ăn năn tội… Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn so với các dạng chữ Nôm cùng thời, cũng như thông tin về một số sinh hoạt xã hội/tôn giáo từ những nhân chứng lịch sử (mắt thấy tai nghe).

Ngoài ra, liên hệ giữa hai âm bútbụt khá rõ nét qua dạng kí âm bằng chữ quốc ngữ; nhưng ít người biết là tương quan bút – bụt còn để lại dấu ấn trong loại chữ ô vuông (chữ Hán) khi truy nguyên. Tiếp tục đọc ” “Tiếng Việt từ TK 17: một số cách dùng Phật giáo như đạo bụt/tượng bụt/lạy bụt/thờ bụt so với bút … luân hồi, vô thường  …” (phần 50)”

Bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số – Trăn trở của những người trong cuộc (chuỗi 3 bài)

QDND.vn

Bài 1: Những người giữ hồn văn hóa dân tộc giữa lòng Thủ đô

Bài 2: Tiếng lòng từ chủ thể văn hóa

Bài 3: Để chủ thể văn hóa tiếp tục phát huy tâm huyết với vốn di sản quý báu 

Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc nói chung và di sản văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng luôn là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta, được đặt trong tổng thể sự phát triển quốc gia, dân tộc. Thời gian qua, nhờ các chính sách tích cực, hiệu quả, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của đồng bào các dân tộc thiểu số được quan tâm bảo tồn, tôn vinh và phát huy giá trị, góp phần quan trọng nâng cao đời sống tinh thần đồng bào các dân tộc, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn những hạn chế, bất cập cần quan tâm khắc phục. Báo Quân đội nhân dân giới thiệu loạt bài “Bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số – Trăn trở của những người trong cuộc”.

Bài 1: Những người giữ hồn văn hóa dân tộc giữa lòng Thủ đô

Tại “Ngôi nhà chung” Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Sơn Tây, Hà Nội), chúng tôi đã gặp những Nghệ nhân Ưu tú, những người bằng tình yêu, trách nhiệm và cả những băn khoăn, trăn trở đang ngày ngày bền bỉ, lặng thầm giữ gìn hồn cốt văn hóa dân tộc. Họ không chỉ là những người trực tiếp bảo tồn di sản văn hóa mà còn thắp lên ngọn lửa đam mê, truyền cảm hứng để những giá trị quý báu không bị lãng quên, mai một.

Lớp cha trước, lớp con sau

Tiếp tục đọc “Bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số – Trăn trở của những người trong cuộc (chuỗi 3 bài)”

Nghĩ về tên xứ sở từ một cây cầu gần nhà [Những địa danh Khmer xưa ở miền Nam còn tồn tại đến ngày nay]

PHẠM HOÀNG QUÂN 04/05/2025 10:14 GMT+7

TTCTNhững cái tên thân thương gắn với làng xóm xứ sở không chỉ có của người Kinh, và dứt khoát là không chỉ có tên Hán – Việt.

Cầu Á Rặt bắc qua rạch Á Rặt, ấp Mỹ Long, xã Thiện Trí, huyện Cái Bè, Tiền Giang. Ảnh: Tư liệu PHQ

Tôi sống ở xứ Cái Bè, vốn là một trong những địa bàn người Việt đến định cư sớm nhứt ở Nam Bộ, vẫn thấy đây đó nhiều tên sông rạch khó hiểu. 

Tiếp tục đọc “Nghĩ về tên xứ sở từ một cây cầu gần nhà [Những địa danh Khmer xưa ở miền Nam còn tồn tại đến ngày nay]”

Heaven & Earth (1993)

Wikipedia – Heaven & Earth is a 1993 American biographical war drama film written and directed by Oliver Stone, and starring Tommy Lee Jones, Haing S. Ngor, Joan Chen, and Hiep Thi Le. It is the third and final film in Stone’s Vietnam War trilogy, following Platoon (1986) and Born on the Fourth of July (1989).

The film was based on the books When Heaven and Earth Changed Places and Child of War, Woman of Peace, both authored by Le Ly Hayslip about her experiences during and after the Vietnam War. It received mixed reviews and performed poorly at the box office. Tiếp tục đọc “Heaven & Earth (1993)”

Nói KHÔNG với kết hôn sớm – Bộ phim về tảo hôn

Plan International Vietnam – 29-1-2024

Sanh chưa bao giờ nghĩ mình sẽ kết hôn khi mới chỉ lớp 9. Như bao bạn gái khác tại địa phương, cuộc sống sau hôn nhân của em có vô vàn trắc trở. Con của Sang không có giấy khai sinh, khi ốm đau cũng không đưa đi bệnh viện được mà chỉ ở nhà sử dụng thuốc Nam.

Nhưng Sanh vẫn tiếp tục hỗ trợ cho cộng đồng nơi em sinh sống. Là một nhà truyền thông tài ba, Sanh chia sẻ câu chuyện của mình tại những buổi sinh hoạt tại xã, tại trường để lan tỏa thông điệp nói không với tảo hôn và sống trọn vẹn với tuổi trẻ đáng giá của mình.