Ấn tượng nhân văn từ “Lá đơn thứ 72”

sggp.org 9/05/2022 08:00 (GMT+7)

(ĐTTCO) – Hướng đến kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ, Sân khấu tư nhân Lệ Ngọc công diễn vở kịch “Lá đơn thứ 72” nói về câu chuyện Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo xử lý thư kêu cứu của người dân bị án oan. NSND Lê Tiến Thọ ở tuổi 71 được mời làm đạo diễn, còn NSND Vương Duy Biên ở tuổi 64 đảm nhận vai trò thiết kế mỹ thuật. 

Một cảnh trong vở kịch “Lá đơn thứ 72”.
Một cảnh trong vở kịch “Lá đơn thứ 72”.

NSND Lê Tiến Thọ là một nhân vật nổi tiếng bậc nhất trong nghệ thuật tuồng Việt Nam, với các vai diễn trong “Suối đất hoa”, “Hoàng hôn đen”, “Lý Phụng Đình”… và còn thể hiện năng lực trong vai trò đạo diễn các vở tuồng “Thiếu phụ Nam Xương”, “Lý Chiêu Hoàng”, “Dũng khí Đặng Đại Độ”…

Ông cũng là tác giả của nhiều kịch bản tuồng như “Chuyện tình ông vua”, “Hoàng thúc Lý Long Tường”, “Vụ án Lệ Chi Viên”… NSND Lê Tiến Thọ được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2012. Sau nhiều năm làm Giám đốc Nhà hát tuồng Việt Nam, ông tiếp tục đảm nhận những vị trí Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn, Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao – Du lịch, Chủ tịch Hội Sân khấu Việt Nam… 

Tiếp tục đọc “Ấn tượng nhân văn từ “Lá đơn thứ 72””

Hội thẩm nhân dân là gì? Điều kiện trở thành hội thẩm nhân dân


Hội thẩm nhân dân là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án. Vậy, vai trò, chứng năng, nhiệm vụ của hội thẩm nhân dân là gì ? Bài viết phân tích và giải đáp cụ thể:

Mục lục bài viết

1. Lịch sử hình thành chế định hội thẩm

Chế độ Hội thẩm (phụ thẩm) nhân dân được ghi nhận và trở thành một chế định quan trọng trong hoạt động của Toà án bằng Sắc lệnh số 33/SL ngày 43.9.1945 và Sắc lệnh số 13/SL ngày 21.1.1946. Hiến pháp năm 1946 19.11.1946 bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta đã chính thức ghi nhận nguyên tắc đại diện nhân dân tham gia xét xử. “Trong khi xét xử việc hình phải có Phụ thẩm nhân dân để tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình”. Bước vào những năm 50, nền tư pháp của chế độ mới đã có những cải cách lớn nhằm đáp ứng đầy đủ hơn nữa yêu cầu của cách mạng, đòi hỏi của nhân dân. Bằng Sắc lệnh số 85/SL ngày 22.5.1950 về cải cách bộ máy tư pháp và Luật tố tụng, phụ thẩm nhân dân được đổi là Hội thẩm nhân dân và đã quy định rõ hơn về địa vị pháp lí của Hội thẩm. Hiến pháp năm 1959 được ban hành và đã ghỉ nhận nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử. “Việc xét xử ở các Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật” (Điều 59). Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 quy định: Khi xét xử sơ thẩm, Toà án nhân dân gồm có một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân… (Điều 112). Từ năm 1986, công cuộc đổi mới đất nước theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VỊ được tiến hành. Để phù hợp với tỉnh thần đổi mới, Hiến pháp năm 1992 được ban hành để thay thế Hiến pháp năm 1980.

Tiếp tục đọc “Hội thẩm nhân dân là gì? Điều kiện trở thành hội thẩm nhân dân”