Rising fertilizer costs decimate poor Mekong farmers’ livelihoods despite their vital role in feeding millions.
BANGKOK, THAILAND ― Skyrocketing prices for fertilizers and agricultural production has pushed farmers in the Mekong region into severe debt and poverty.
Many have been forced to abandon their farms or have been unable to pay their debts and have lost their land, despite their roles in ensuring food security for millions of people.
“This is the worst year for farmers. Everything is more expensive, except rice prices, and they keep dropping,” said Prasert Tangthong, 58, a farmer with a small holding in Sing Buri province in central Thailand.
LTS. Gần 20 năm tâm huyết với các vấn đề trên dòng Mekong cũng như đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), bác sĩ Ngô Thế Vinh không chỉ là một nhà văn với hai tác phẩm Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng và Mekong – dòng sông nghẽn mạch, ông còn là một nhà hoạt động môi trường bền bỉ. Ông đã có những chuyến đi dọc dòng Mekong dài 4.800km, từ Tây Tạng đổ xuống Biển Đông. Người Đô Thị có cuộc phỏng vấn ông Ngô Thế Vinh về các vấn đề nóng bỏng hiện nay trên dòng Mekong và ĐBSCL.
Thưa, dù đã 17 năm trôi qua, từ những chuyến đi dọc dòng sông Mekong dài 4.800km, bức tranh sống động mà ông “phác họa” về những tác hại khủng khiếp do các con đập thủy điện gây ra cho đời sống người dân lưu vực sông Mekong đến nay vẫn nóng hổi tính thời sự. Từ những dự cảm rất sớm về những hậu quả do các đập thủy điện gây ra trên dòng Mekong và cho ĐBSCL nói riêng, ông nhận định gì về thực trạng hiện nay?
Năm 2000, khi nói “Cửu Long cạn dòng”, nhiều người xem đó là phát biểu “nghịch lý” bởi đó là năm có lụt lớn ở miền Tây. Một vị tu sĩ đang tất bật lo việc cứu trợ, mới nghe tên cuốn sách đã phát biểu: “Đang lũ lụt ngập trời với nhà trôi người chết mà lại nói “Cửu Long cạn dòng” là thế nào?” Nhưng cần hiểu rằng lũ và hạn tương ứng với mùa mưa và mùa khô là chu kỳ tự nhiên đã có hàng ngàn năm trên dòng Mekong và các vùng châu thổ, và đến nay thì mức độ càng trầm trọng và gay gắt.
Chúng ta không thể đổ lỗi hết cho “thiên tai”, mà cần can đảm gọi cho đúng tên những yếu tố “nhân tai” bởi do chính con người gây ra qua suốt quá trình phát triển không bền vững và có tính tự hủy từ nhiều thập niên qua, đã làm gãy đổ sự cân bằng của cả một hệ sinh thái vốn phức tạp nhưng cũng hết sức mong manh của dòng Mekong.
Băng qua Biển Hồ đến khu Bảo tồn sinh thái Tonle Sap (nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh)
Trong 18 tháng vừa qua, do sự hạn chế đi lại của đại dịch Covid, sự quan tâm chú ý đến các vấn đề môi trường trong khu vực ở hầu hết các khía cạnh đều ít nhiều bị hạn chế hoặc lơ là. Đây có thể là lý do vì sao chúng ta đã không kịp nhận biết khi một doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam, Công ty Xây dựng Sông Đà 6, khởi động việc xây dựng đập Sê Kông A (hay còn gọi là đập Sê Kông 1) tại CNDCND Lào.
Nếu được xây dựng ở vị trí này trên dòng chính sông Sê Kông, con đập sẽ cắt hầu hết sự kết nối của Sê Kông với dòng chính Mê Công, và vì vậy sẽ chặn đứng sự di cư của nhiều loài cá lên vùng sinh sản ở thượng nguồn. Sông Sê Kông là dòng nhánh lớn cuối cùng trong hệ thống sông Mê Công hầu như còn chảy thông suốt và việc xây dựng đập Sê Kông A sẽ đe dọa trực tiếp đến trữ lượng cá và an ninh lương thực khu vực: https://nhipcaudautu.vn/phong-cach-song/dap-se-kong-1-de-doa-dong-bang-song-cuu-long-3323435/.
Abstract: This review recommends possible extension and/or realignment of economic corridors to enhance their effectiveness and efficiency in advancing economic integration in the Greater Mekong Subregion. The economic corridor approach was adopted by the Greater Mekong Subregion (GMS) countries in 1998 to help accelerate subregional development. The development of economic corridors links production, trade, and infrastructure within a specific geographic area. The review of these corridors was conducted to take into account the opening up of Myanmar and ensure that there is a close match between corridor routes and trade flows; GMS capitals and major urban centers are connected to each other; and the corridors are linked with maritime gateways. The review came up with recommendations for possible extension and/or realignment of the corridors, and adoption of a classification system for corridor development. The GMS Ministers endorsed the recommendations of the study at the 21st GMS Ministerial Conference in Thailand in 2016.
This issue brief, the fourth in Stimson’s “Letters from the Mekong” series, explores the shifting terrain for power sector development in the Greater Mekong Subregion (GMS), analyzing hydropower within the context of a broader range of emerging factors and opportunities that could lead to a transformation in the way that Mekong countries approach energy security, regional electricity trade, and sustainable development. This transition, if effectively implemented, could lead to substantive economic gains and significantly reduce ecological, socioeconomic, and political risks in the Mekong Basin. Tiếp tục đọc “Letters from the Mekong: Mekong Power Shift – Emerging Trends in the GMS Power Sector”→