Quyền tự do học thuật trong giáo dục đại học – Right to Academic Freedom

Viện Nghiên Cứu Lập Pháp UBTVQH

TS. BÙI TIẾN ĐẠT Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nộ

Tóm tắt: Tự do học thuật được quan niệm rộng rãi là một phần của quyền tự do ngôn luận vốn đã được luật nhân quyền quốc tế và các Hiến pháp Việt Nam ghi nhận. Tuy nhiên, vấn đề này còn ít được quan tâm nghiên cứu và chú trọng đảm bảo trong thực tiễn ở Việt Nam. Luật Giáo dục đại học 2012 sửa đổi, bổ sung năm 2018 đã bổ sung điều khoản về tự chủ học thuật của cơ sở giáo dục đại học và giảng viên. Bài viết này phân tích tầm quan trọng thiết yếu của quyền tự do học thuật trong giáo dục đại học từ kinh nghiệm thế giới và từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm bảo đảm quyền này ở Việt Nam.

Từ khóa: Tự do học thuật, tự do ngôn luận, Luật Giáo dục đại học, cơ sở giáo dục đại học, giảng viên.

Abstract: Freedom of academics is universally conceptualised as part of right to freedom of expression, which has been well-recognised by international law on human rights and the Constitutions of Vietnam. However, it can be observed that little attention is put to review and assure for implementation in Vietnam. The 2018 amenments of Law on Higher Education of 2012 record supplemental provisions on academic autonomy of universities and lecturers. This article provides analysis of the essential inportance of the right to freedom of academic in higher education and also provides recommendations for assurance of this right in Vietnam.

Keywords: Academic freedom, freedom of expression, Law on Higher Education; university; lecturer.

Năm 2013, các thảo luận về Đề án đổi mới giáo dục được cho là sẽ “làm lay chuyển nền giáo dục”, đã bàn tới chủ đề tự do học thuật[1]. Luật Giáo dục đại học 2012 trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2018 gần đây đã bổ sung điều khoản về tự chủ học thuật của cơ sở giáo dục đại học và giảng viên. Theo đó, cơ sở giáo dục đại học có “quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn”[2] và giảng viên có quyền “độc lập về quan điểm chuyên môn trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học”[3].  Mặc dù các điều khoản này không dùng thuật ngữ “tự do học thuật” nhưng vẫn thể hiện tinh thần của quyền này. Sửa đổi vừa nêu góp phần nâng cao quyền tự do học thuật của cả cơ sở giáo dục đại học và giảng viên. Vậy quyền tự do học thuật là gì? Vai trò của nó trong cải cách giáo dục ra sao? Cần lưu ý vấn đề gì nhằm bảo đảm quyền tự do học thuật trong giáo dục đại học ở Việt Nam?

1. Quan niệm chung và vai trò của tự do học thuật trong cải cách giáo dục trên thế giới

Quan niệm về quyền tự do học thuật

Lịch sử loài người đã trải qua những bài học quý báu cho thấy sự cần thiết của tự do học thuật (academic freedom) trong phát triển xã hội. Socrates (470-399 TCN) đã phải chịu án tử hình vì những tư tưởng của ông bị cho là đầu độc giới trẻ Athens. Galileo (1564-1642) đã phải chịu án chung thân vì ủng hộ thuyết nhật tâm của Copernic. Trong thời hiện đại, nhiều giáo viên từng bị sa thải vì giảng dạy về thuyết tiến hóa của Darwin[4].

Về lịch sử giáo dục, tự chủ đại học được áp dụng tại Đại học Humboldt (lấy tên của Wilhelm von Humboldt) để cải cách đại học kiểu Napoleon thành đại học nghiên cứu[5]. Quyền tự do học thuật được hiểu là bộ phận của quyền tự do ngôn luận và cần được bảo vệ ở mọi cấp độ giáo dục[6]. Đây là một quyền phổ quát của giới học giả[7]. Ở Hoa Kỳ, quyền này được bảo vệ bởi Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp. Ở nhiều nơi trên thế giới với nền giáo dục, khoa học phát triển, “tự do học thuật tồn tại trong môi trường giáo dục đại học (GDĐH) như một lẽ đương nhiên”[8]. Năm 1997, UNESCO công bố bản Khuyến nghị về vai trò của giảng viên đại học, trong đó dành sự quan tâm rất lớn đến vấn đề tự do học thuật[9].

Tiếp tục đọc “Quyền tự do học thuật trong giáo dục đại học – Right to Academic Freedom”