Về nguồn gốc từ Ba la mật 菠蘿蜜 mà Hán ngữ dùng gọi quả mít

TĐH: Cây mít có tên Hán là Ba la mật, nghe y hệt như từ “Ba la mật” hay “Ba la mật đa” trong kinh Phật, có nghĩa là qua bờ bên kia, tức là “giác ngộ”, như từ “Bát Nhã Ba la mật đa” trong Bát Nhã Tâm Kinh.  Có lẽ chính vì vậy mà người ta hay trồng mít trong sân chùa. Tuy nhiên bài dưới đây, có giả thuyết rằng “mít” là từ Việt cổ blái mít (trái mít), du nhập sang TQ và biến thành Ba ma mật.  Rất thú vị, và có lý hơn là lý giải rằng âm ba-la-mật-đa là người Trung Hoa lấy từ tiếng Phạn có nghĩa là qua bờ.

Phan Anh Dũng
VHNA
Thứ tư, 16 Tháng 8 2017 07:53

Trước hết về gốc gác phương Nam của cây “ba la mật 菠蘿蜜”[1] thì không cần phải bàn cãi, vì chính sách vở và các trang mạng Trung Quốc cũng ghi rõ ba la mật 菠蘿蜜là giống cây nhiệt đới có gốc gác ở Ấn Độ.

Như vậy phải chăng cách gọi cây “mít” của Việt Nam chính là mượn từ “ba la mật” của Trung Quốc rồi bỏ tiền tố “ba la” đi, chỉ còn “mật” sau đó lại đọc trại cả nguyên âm -â- thành -i-, là nguyên âm có độ mở miệng hẹp hơn ?

Điều nay có vẻ hơi nghịch lý, vì Việt Nam là nước trồng nhiều mít, và cây mít nếu di thực từ Ấn Độ thì lan truyền theo đường ven biển qua Việt Nam vào Trung Quốc thuận tiện hơn là qua vùng núi Tây Tạng, vì đây là vùng núi cao và giá lạnh không thích hợp để trồng mít. Do đó tên gọi “ba la mật” truyền từ Việt Nam sang Trung Quốc có lẽ hợp lý hơn ? Tiếp tục đọc “Về nguồn gốc từ Ba la mật 菠蘿蜜 mà Hán ngữ dùng gọi quả mít”