Emergency reserves, high prices, rationing. How did Japan’s rice crisis get this far?

Japan’s agriculture minister has resigned because of political fallout over his comment that he “never had to buy rice” because he got it from supporters as gifts.Read More

Japan’s agriculture minister has resigned because of political fallout over his comment that he “never had to buy rice” because he got it from supporters as gifts. (Produced by Elaine Carroll)Read More

A rice field in Mito, Japan, where farmers are being encouraged to grow more of the staple crop to make up for shortages on store shelves, on Wednesday, May 22, 2025. (AP Photo/Elaine Kurtenbach)

Tiếp tục đọc “Emergency reserves, high prices, rationing. How did Japan’s rice crisis get this far?”

Another year, another rise in food insecurity – including famine

UN.org

Hundreds of thousands of Sudanese have sought refuge in Chad due to the ongoing conflict and resulting food shortages.

© WFP/Lena von Zabern

Hundreds of thousands of Sudanese have sought refuge in Chad due to the ongoing conflict and resulting food shortages.

 Humanitarian Aid

In July 2024, famine was detected in the Sudan’s Zamzam IDP camp. In the following months, the official alert expanded to other camps in Darfur and Western Nuba Mountains. From December until now, famine has been confirmed in five other areas of the war-torn country. A further 17 areas are at risk. 

It is the first time since 2017 that a famine has been declared anywhere on Earth.

In the 20 months since the war between rival militaries erupted, 13 million Sudanese have been forcibly displaced and over 30.4 million are in desperate need of humanitarian assistance, according to UN estimates.

Tiếp tục đọc “Another year, another rise in food insecurity – including famine”

Philippines declares ‘food security emergency’ to tame retail rice prices

By Reuters

February 3, 20255:50 PM GMT+7Updated 3 months ago

A farmer removes weeds growing alongside with ride stalks at a ricefield in Naujan, Oriental Mindoro

MANILA, Feb 3 (Reuters) – The Philippines, among the world’s largest rice importers, declared on Monday a food security emergency to bring down the cost of rice, which it said has stayed elevated despite lower global prices and a reduction in rice tariffs last year.

The declaration, which was widely expected, will allow the government to release buffer stocks to help bring down retail prices of the national staple, Agriculture Secretary Francis Tiu Laurel said in a statement, adding it would remain in effect until the price situation improves.

Despite efforts to liberalise rice imports and reduce tariffs, the agriculture department said, the domestic market has been slow to respond, with retail prices surpassing expectations.

Half of the 300,000 metric tons buffer stock the National Food Authority currently holds could be released over the next six months to ensure supply for emergencies and disaster response, it added.

The annual rate of increase in rice prices in the Philippines hit a 15-year high of 24.4% in March last year, but has since moderated to 0.8% in December, helping keep overall inflation for 2024 within the government’s 2% to 4% target.

Last year, the Philippines lowered tariffs on rice and extended existing tariff cuts on some other commodities to combat inflation and ensure ample supply

Reporting by Karen Lema; Editing by Martin Petty

The National Security Imperative of USAID’s Food Security Programs

Climateandsecurity.org

As of today, the Trump Administration has paused two essential US global food security initiatives, Feed the Future and the Famine Early Warning Systems Network (FEWS NET). Created in reaction to the 2007-8 global food crisis and resulting instability, Feed the Future is a marquee US government food security program and tool for implementing the bipartisan Global Food Security Act, working in 20 countries to build a more resilient food system and supporting agricultural innovation at 17 US universities. Operating since 1985, FEWS NET provides rigorous analysis and forecasting of acute food insecurity to inform US and other humanitarian responses in 30 countries.

These programs make invaluable contributions to US national security and global stability. For example, Feed the Future builds resilience in five countries where the US National Intelligence Estimate on climate change assesses “building resilience…would probably be especially helpful in mitigating future risks to US interests.” In Central America, where drought during growing seasons has driven increased migration to the United States, Honduran Feed the Future beneficiaries report a 78% lower intent to migrate than the wider population. Meanwhile, FEWSNET’s data and analysis more quickly and efficiently direct US humanitarian support in reaction to conflict, economic shocks, and extreme weather, including in regions where the US military is deployed. 

Both programs have historically received consistent bipartisan support. Speaking at the launch of a new Feed the Future initiative last year, Senator John Boozman (R-AR) noted, “food security is national security.” Another Feed the Future supporter, Representative Tracey Mann (R-KS 1st District), has highlighted the value of his district’s Feed the Future Innovation Lab and stated that global food security programs have “an especially strong return on investment because they support American agriculture producers today, while greatly reducing the need for conflict or war-related dollars spent tomorrow” and are “a way to stop wars before they start.” As Executive Director of the World Food Program (2017-2023), former South Carolina Governor and Representative David Beasely testified to the Senate that “Investments in early warning systems like USAID’s Famine Early Warning System…allow humanitarian partners to project and respond in real time to potential emergencies….Without this capacity to forecast food insecurity, the cost of humanitarian intervention is much greater, both in dollars and lives lost.”

Last year, dozens of national security leaders, including the former commanders of Indo-Pacific Command (INDOPACOM), Africa Command (AFRICOM), and Central Command (CENTCOM), endorsed the Council on Strategic Risks’ The Feeding Resilience Plan: Safeguarding US National Security at the Crossroads of Food and Climate Change. The report makes recommendations to US policymakers to better anticipate, prevent, and respond to food- and climate-driven national security threats, including to:

  • “Support long-term resilience building in vulnerable countries by sustaining and expanding Feed the Future,” noting it and similar programs “bolster vulnerable countries’ ability to withstand food shocks and forestall security threats or need for costly US assistance,” and
  • “Expand on USAID’s FEWS NET to include longer-term food insecurity warnings” and to have security and defense agencies better “integrate FEWSNET projections with processes to forecast political instability and conflict.”

Amid multiplying threats from instability, extreme weather, and geopolitical competition, these recommendations remain critical today, and highlight the important national security benefits of capabilities like Feed the Future and FEWS NET.  

Rice Markets Are In Crisis Mode

Global supplies of rice are facing its most significant shortage in two decades, exacerbating food insecurity fears. Rice is a staple food for over half the world’s population. India’s export bans sent shockwaves through markets as some argue the country is using food as a political pawn. America’s $34 billion rice industry must compete against the same market uncertainty while managing droughts, floods and changing temperatures. Watch this video to learn more about how global rice markets influence food security, geopolitics and the livelihoods of millions of farmers.

Mất an ninh lương thực và nước ngày càng trầm trọng do biến đổi khí hậu

Cục Khí Tượng Thuỷ Văn

05-09-2023 |

Một trong những vấn đề toàn cầu quan trọng hiện đang đe dọa nhân loại là tình trạng mất an ninh lương thực và nước. Tình trạng này ngày càng gia tăng bất chấp nhiều tiến bộ công nghệ vượt trội.

Trung Đông và Bắc Phi là các khu vực dễ bị tổn thương nhất khi xảy ra biến đổi khí hậu. Ảnh: ec.europa.eu

Trung Đông và Bắc Phi là các khu vực dễ bị tổn thương nhất khi xảy ra biến đổi khí hậu.

Ảnh: ec.europa.eu

Đó là nhận định của Tiến sĩ Majid Rafizadeh, nhà khoa học chính trị người Mỹ gốc Iran, từng tốt nghiệp Đại học Harvard, với mạng tin tức Arab (arabnews.com) ngày 3/9.

Theo Tiến sĩ Rafizadeh, khi nói đến hệ thống lương thục, điều quan trọng cần chỉ ra là mối quan hệ chặt chẽ giữa sản xuất lương thực và biến đổi khí hậu. Quá trình sản xuất lương thực toàn cầu tạo ra hơn 1/3 tổng lượng khí thải nhà kính. Đây là một trong những nguyên nhân góp phần gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu.

Nhưng tại sao chỉ riêng quá trình sản xuất lương thực có thể tạo ra hơn 1/3 lượng khí thải nhà kính do con người gây ra? Điều này phần lớn liên quan đến quy trình sản xuất, chế biến, bảo quản, đóng gói, phân phối, tiêu thụ và thậm chí thải bỏ.

Các quy trình sản xuất lương thực, bao gồm cả việc sử dụng phân bón, là nguyên nhân hàng đầu gây ra “lượng khí thải tổng thể từ hệ thống sản xuất lương thực, hay 39% tổng lượng khí thải, trong khi khí methane từ chăn nuôi và trồng trọt chiếm 35% lượng khí thải nhà kính từ sản xuất lương thực.

Tiếp tục đọc “Mất an ninh lương thực và nước ngày càng trầm trọng do biến đổi khí hậu”

Biến đổi khí hậu đang trở thành thách thức an ninh

baochinhphu.vn

(Chinhphu.vn) – Dù ở mức độ quốc gia hay toàn cầu thì biến đổi khí hậu (BĐKH) luôn được xem là vấn đề cấp bách, có tác động tới tiến trình phát triển bền vững trên toàn thế giới. Tác động do BĐKH đang trở thành nguyên nhân gây ra những thách thức an ninh khí hậu.

Nhân Ngày Khí tượng thế giới (23/3) với chủ đề “Đại dương-thời tiết và khí hậu của chúng ta”, Báo điện tử Chính phủ có bài phỏng vấn TS. Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi Khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH, xin ông cho biết tình trạng BĐKH đang diễn ra cực đoan như thế nào trên quy mô toàn cầu và ở Việt Nam?

TS. Tăng Thế Cường: BĐKH đang diễn ra nhanh, trực tiếp tác động mạnh đến an ninh lương thực toàn cầu do nhiệt độ tăng, thay đổi lượng mưa, tần suất các hiện tượng cực đoan, đồng thời làm gia tăng sức ép lên hệ thống đất đai, qua đó bùng phát nguy cơ cao về hoang mạc hoá, suy thoái đất. Những đợt sóng nhiệt, tăng cường, mưa bão, hạn hán, thiên tai, ngập lụt diễn ra ở phạm vi rộng hơn, đặc biệt là ở các thành phố ven biển, gây thiệt hại nặng nề đến cuộc sống con người và tiếp tục hủy hoại các hệ sinh thái. Nước biển dâng sẽ gây ra các đợt tị nạn quy mô lớn do BĐKH.

Tiếp tục đọc “Biến đổi khí hậu đang trở thành thách thức an ninh”

Sản xuất, kinh doanh khốn đốn vì thiếu điện

Phương Nga 16:02 07/06/2023

Kinhtedothi – Tình trạng cắt điện luân phiên tại các địa phương đang khiến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đảo lộn, ngưng trệ, chi phí đội lên cao… Để đảm bảo duy trì sản xuất, doanh nghiệp mong muốn ngành điện có phương án cân đối nguồn điện ưu tiên cho những ngành đặc thù.

Sản xuất ngưng trệ, đội chi phí

Những ngày này, anh Nguyễn Văn Chữ – Chủ tịch chuỗi thực phẩm sạch Organic Green như ngồi trên đống lửa khi nhìn vào lịch cắt điện luân phiên dày đặc. Bởi doanh nghiệp của anh hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm sạch, vì vậy nguồn điện rất cần cho các kho bảo quản thực phẩm tươi sống.

Anh Chữ chia sẻ, mặc dù cơ sở đã trang bị máy phát điện nhưng chỉ đủ duy trì một số hoạt động cơ bản và khu văn phòng, không đảm bảo được hệ thống cấp đông, bảo quản sản phẩm. Nếu mất điện lâu, doanh nghiệp có thiệt hại tới hàng chục tỷ đồng. Bởi mặt hàng thực phẩm tươi sống cần được bảo quản trong nhiệt độ thấp, nếu không được bảo quản sẽ bị giã đông và ảnh hưởng chất lượng.

Kho bảo quản thực phẩm tại chuỗi thực phẩm Organic Green
Kho bảo quản thực phẩm tại chuỗi thực phẩm Organic Green

Ngoài ra, cũng vì mất điện, nên nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi của doanh nghiệp này cũng phải tạm dừng hoạt động. Ngừng hoạt động khiến công ty không đủ hàng giao cho các đại lý. “Lịch cắt điện không phải chỉ luân phiên 1-2 tiếng, mà cắt cả ngày cả đêm, nên ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty” – anh Chữ bức xúc.

Tiếp tục đọc “Sản xuất, kinh doanh khốn đốn vì thiếu điện”

The United Nations declaration on the rights of peasants and other people working in rural areas

globalagriculture.org

The UNDROP Declaration (1) adopted by the General Assembly of the United Nations on December 17, 2018 reaffirms the UN Declarations on the right to development (2) , the rights of indigenous peoples (3) and the universality of all human rights. It recognises the special relationship and interaction among peasants and other groups working in rural areas and their contribution to conserving and improving biodiversity as well as their own and world-wide food security.

Article 1 of the Declaration defines peasants as any person who engages in small-scale agricultural production for subsistence and/or for the market, who relies significantly on family, household or other non-monetarized labour and who has a special dependency on the land.

It recognises that peasants and people working in rural areas, including youth and the ageing, are migrating to urban areas due to a lack of incentives and the drudgery of rural life, due to insecure land tenure, discrimination and the lack of access to productive resources, financial services and information. The Declaration is based on a concern that peasants and rural workers are burdened with environmental degradation and climate change and suffer disproportionately from poverty, hunger and malnutrition. This Declaration is an important contribution to the advancement of a paradigm for development where the agency of peasants, indigenous and forest peoples is at its foundation.

Tiếp tục đọc “The United Nations declaration on the rights of peasants and other people working in rural areas”

Khủng hoảng khí hậu: Chuyện tiền cả đấy!

LÊ QUANG 31/07/2022 06:33 GMT+7

TTCTKhi người tiêu dùng rên xiết bởi đồng tiền mất giá, lãi bán hàng không đủ mua xăng dầu, hay mùa đông tới châu Âu có lẽ phải hạ lò sưởi xuống 18 độ C – thì chiến sự ở Ukraine là lời giải thích quá vội vã và quá dễ dãi. Về lâu dài, biến đổi khí hậu mới là nguyên nhân chính.

Khủng hoảng khí hậu: Chuyện tiền cả đấy! - Ảnh 1.

Nhiều nước châu Âu đang trải qua giai đoạn nắng nóng kỷ lục. Ảnh: Reuters

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra mối liên hệ giữa thời tiết khắc nghiệt và khủng hoảng kinh tế, nhưng chỉ tập trung vào các nước đang phát triển, tình cờ cũng là những quốc gia bị lũ lụt, bão và hạn hán thường xuyên và nghiêm trọng hơn nhiều so với phương Tây. Nói cách khác, người ta đã cố tình lờ đi một điểm yếu của phương Tây, vốn vẫn luôn bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, nay chỉ lộ rõ hơn vì chiến sự Ukraine.

Tiếp tục đọc “Khủng hoảng khí hậu: Chuyện tiền cả đấy!”

The Ukraine Crisis Threatens a Sustainable Food Future

WRI.org

Russia’s invasion of Ukraine has already driven millions of people from their homes and left many without water, power and food. As hostilities continue, the humanitarian and economic consequences will expand far beyond the region, putting potentially millions of people around the world at risk of hunger.  

And these aren’t just short-term threats. The decisions that farmers and policymakers make over the next few weeks and months will have long-term consequences for the future of the world’s food systems. The right responses can keep the world on track for a sustainable food future. The wrong ones will worsen food insecurity and fuel climate change.

Ukrainian refugees at the Poland border.
Ukrainian refugees escape to the border town of Medyka, Poland. Millions of Ukrainian residents have fled their homes in recent weeks, due to the Russian invasion. Photo by Damian Pankowiec/Shutterstock

Emerging Food Implications of the Ukraine Crisis

Tiếp tục đọc “The Ukraine Crisis Threatens a Sustainable Food Future”

“Giải pháp lắm chân” cho cái đói

CHỦNG HẠNH 14/10/2021 9:05 GMT+7

TTCTBánh mì kẹp sâu cho bữa sáng, sữa gián và sữa ruồi đen luôn sẵn có ở căngtin, và món cháo dế sẽ sưởi ấm những đêm mưa rét. Đây là những loại thực phẩm thân thiện với môi trường, hứa hẹn sẽ cách tân chế độ ăn uống “xấu xí” của loài người trong tương lai.

 Ảnh: Shutterstock

Tiếp tục đọc ““Giải pháp lắm chân” cho cái đói”

Sixty years of climate change warnings: the signs that were missed (and ignored)

theguardian.com

The effects of ‘weird weather’ were already being felt in the 1960s, but scientists linking fossil fuels with climate change were dismissed as prophets of doomby Alice BellMon 5 Jul 2021 06.00 BST

In August 1974, the CIA produced a study on “climatological research as it pertains to intelligence problems”. The diagnosis was dramatic. It warned of the emergence of a new era of weird weather, leading to political unrest and mass migration (which, in turn, would cause more unrest). The new era the agency imagined wasn’t necessarily one of hotter temperatures; the CIA had heard from scientists warning of global cooling as well as warming. But the direction in which the thermometer was travelling wasn’t their immediate concern; it was the political impact. They knew that the so-called “little ice age”, a series of cold snaps between, roughly, 1350 and 1850, had brought not only drought and famine, but also war – and so could these new climatic changes.

“The climate change began in 1960,” the report’s first page informs us, “but no one, including the climatologists, recognised it.” Crop failures in the Soviet Union and India in the early 1960s had been attributed to standard unlucky weather. The US shipped grain to India and the Soviets killed off livestock to eat, “and premier Nikita Khrushchev was quietly deposed”.

But, the report argued, the world ignored this warning, as the global population continued to grow and states made massive investments in energy, technology and medicine.

Tiếp tục đọc “Sixty years of climate change warnings: the signs that were missed (and ignored)”

Giáo sư Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời.”

GS Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời” - Ảnh 1.

soha – Tháng 11 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc quyết định ban hành nghị quyết số 120. Bản nghị quyết còn có tên gọi đặc biệt khác: “Thuận thiên”, về Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với biến đổi khí hậu.

Theo lời kể của vị giáo sư “cây lúa” Võ Tòng Xuân, 2 chữ “thuận thiên” ấy được bắt đầu từ một cuộc trò chuyện ngắn ngủi trên bàn ăn giữa Thủ tướng và ông. Một điều ít ai biết, GS Võ Tòng Xuân đã ấp ủ nó để được “thưa” suốt 30 năm.

4 năm sau cuộc gặp ấy, trong cuộc trò chuyện với chúng tôi, ông lão 80 tuổi tóc bạc phơ vẫn ngày ngày cần mẫn với công việc nghiên cứu, giảng dạy cho hàng nghìn sinh viên nông nghiệp. Và vẫn tự hào khi nhắc về 80 năm cuộc đời trăn trở cho con đường “thuận thiên”…

GS Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời” - Ảnh 2.

Bắt đầu cuộc trò chuyện này, tôi muốn biết từ khi nào “thuận thiên” xuất hiện trong suy nghĩ của giáo sư, thưa ông?

GS Võ Tòng Xuân: Khi 15.000 hecta vùng đất thấp ngập mặn, lúa chết sạch, Sóc Trăng bà con kêu thấu trời xanh.

Một thời Việt Nam ta tự hào vì 9 con rồng đổ mình ra biển Đông, nhưng đến thập kỷ 1960 con rồng Ba Thắc (Sóc Trăng) thực sự đã chết. Thập kỷ 1980 thì tới lượt con rồng Ba Lai (Bến Tre) mười mấy cây số đều bị lấp, không còn đủ chảy nước chảy thành một lòng sông…

Khi ấy, tôi nói đùa với đồng nghiệp: “Cửu Long mất hai, giờ chẳng lẽ đổi tên đồng bằng ta là Thất Long sao?”. Nhưng nói xong, chỉ thấy nhói tận tâm.

GS Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời” - Ảnh 3.

Suốt một thời gian dài từ 2000 đến nay, tôi đã chứng kiến ĐBSCL trải qua những mùa khô và hạn hán khốc liệt như thế đấy! Đi đến đâu, gặp bất kỳ người nông dân nào, cũng chỉ nước mắt và lời kêu than không thể nào đau lòng hơn.

Cho đến một buổi sáng tháng 3/2010, tôi tình cờ đọc trực tuyến trên tờ Bangkok Post bản tin về Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo ngồi giữa thửa ruộng Vân Nam. Xung quanh bốn bề đất nứt như gót chân người, không còn lấy một giọt nước.

Dưới bức ảnh, Thủ tướng Ôn Gia Bảo nhắn: “Tôi không dám vào viếng một nhà nông dân nào. Vô đó, tôi chắc chắn họ không còn nước mời tôi uống”.

Ngày 25/3/2010, tôi đi viếng vùng nhiễm mặn Sóc Trăng cũng thấy tình trạng cạn khô như vậy.

Khi đó tôi mới vỡ lẽ.

GS Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời” - Ảnh 4.

Vỡ lẽ về điều gì, thưa ông?

GS Võ Tòng Xuân: Suốt thời gian dài, chúng ta nói, thượng nguồn Trung Quốc xây đập thuỷ điện chằng chịt, chặn đứng nguồn nước Mê Kông gây hạn hán, ngập mặn. Việt Nam, Thái Lan, Campuchia nhiều năm nay vẫn kiện cáo, đòi mở đập để “giải cứu” cây lúa miền dưới.

Nhưng thực tế không phải vậy!

Rõ ràng lúc Việt Nam đang gặp hạn thì trên Vân Nam họ cũng thế! Từ sau năm 2015, mực nước sông Mê Kông mùa khô liên tục rơi xuống còn 1.600 m3 – 1.800 m3/s, trong khi trước đây nó từng đạt 40.000 m3/s vào mùa mưa và 2000 m3/s vào mùa khô.

Chúng ta kiện, chúng ta đòi mở nước nhưng Trung Quốc họ đã không còn đủ nước cho cả đất nước họ nữa rồi. Mà cho là có năm dư, khi xuống tới đường ranh Thái Lan – Lào, hàng ngày hàng nghìn trạm bơm vẫn lấy nước đổ vào cho vùng hạn Đông Bắc Thái Lan thì đến lượt Việt Nam liệu có còn nước không?

Đó là tình hình chung thế giới! Và cái biến đổi khí hậu nó đã xảy ra hàng chục năm nay, trên toàn bộ Trái Đất, chứ đâu phải đến tận bây giờ ông trời mới bắt Việt Nam gồng gánh nỗi đau này?

Có thời điểm vì sợ thiếu lương thực, Bộ Nông nghiệp và Hải Quan đề nghị nước ta tạm ngưng xuất khẩu gạo. Hơn một tháng trời, nước ngoài không đợi được, họ liền quay sang Thái Lan mua gạo.

Lúc đó, tôi lên tiếng khẳng định luôn: “Nước ta không bao giờ thiếu lúa gạo!”.

GS Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời” - Ảnh 5.

Để chứng minh điều này, tôi đã đi dọc các tỉnh ven biên giới Campuchia. Ở đó, khoảng 1,2 triệu hecta đất vùng nước ngọt quanh năm, nước mặn không thể ngập tới, cây lúa vẫn phát triển tốt, thậm chí còn cho năng suất rất cao.

Chỉ duy khoảng 15.000 hecta ở vùng ven biển của mấy ông nông dân “cãi trời”, chính quyền đã cảnh báo nhưng vẫn chăm chăm làm lúa thì giờ mới than trời kêu đất.

Truyền thông không nhìn thấy được bức tranh toàn cảnh nên đã gây ra rất nhiều hiểu lầm.

Tháng 9/2017, tôi được mời tham dự Hội nghị về Phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu tại Cần Thơ, do Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì. Nhân dịp này tôi mới rút ruột rút gan ra trình bày với Thủ Tướng:

“Nông dân miền Tây mình đang mắc vòng kim cô rất lớn! Thưa Thủ tướng…”

Thủ tướng thấy lạ bèn hỏi lại: “Kim cô gì thầy? Nhờ thầy nói rõ!”

“Kim cô chính là lúa.”.

Tôi giải thích tiếp: “Giờ này chúng ta thặng dư nhiều lúa rồi nhưng Nhà nước cứ buộc nông dân trồng lúa, vùng mặn cũng phải làm. Đó chính là ta đi ngược với thiên nhiên, chống thiên nhiên.”

GS Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời” - Ảnh 6.

Thủ tướng hỏi: “Chống như thế nào thầy?”

“Ở các vùng mặn, mùa nắng ruộng chỉ có nước mặn, đáng lẽ người ta phải nuôi tôm, nuôi cá, sinh lời… lại bắt người ta trồng lúa. Đó là không thuận thiên…”

Lúc ấy, Thủ tướng vỡ lẽ.

Kết thúc kỳ họp, Thủ Tướng đồng ý dùng 2 chữ “thuận thiên” làm tôn chỉ cho nghị quyết mới.

Tháng 11/2017 thì nghị quyết 120 do Chính phủ ban hành đã nhấn mạnh tầm quan trọng của 2 chữ “Thuận thiên”.

Bởi khi ấy, nếu nông dân tiếp tục “cãi trời”, ĐBSCL sẽ đi vào thế khó. Thuận thiên thì không những biến nguy thành cơ mà còn là cơ hội “vàng” cho Tây Nam Bộ vươn lên làm giàu.

GS Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời” - Ảnh 7.

Trước Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Giáo sư đã bao giờ đề cập đến con đường “thuận thiên” này lần nào khác?

GS Võ Tòng Xuân:  Thú thật, hơn 50 năm “ăn nằm” với cây lúa, tôi chưa bao giờ thôi nghĩ về nó.

Thời kỳ đất nước giải phóng, chúng ta đề ra chính sách đảm bảo an ninh lương thực, chú trọng việc trồng lúa.

Tại kỳ họp thứ 1 Quốc hội Khóa VII (1981-1987) do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng chủ trì, Chánh phủ báo cáo đã mở rộng sản xuất lương thực vùng Đồng Tháp Mười và vùng lúa Tứ Giác Long Xuyên.

Đến lúc đại biểu Quốc Hội tham luận, tôi đăng ký xin thưa: “2 vùng vừa báo cáo không chỉ không cho kết quả như ý muốn mà còn làm nãn lòng nhân dân”.

Bởi thời điểm đó, những vùng này đất rất phèn, cây tràm đã sống thành rừng mà giờ ta lại chỉ đạo phá rừng, trồng lúa.

Mọi người cứ nghĩ Nam Bộ “cò bay thẳng cánh” thì đâu đâu cũng trồng lúa được. Không phải! Đó là cưỡng trời, là đi ngược thiên nhiên. Bao nhiêu vốn đầu tư nhưng sẽ không lấy lại được bao nhiêu!

GS Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời” - Ảnh 8.

Nghe xong, chủ tịch Phạm Văn Đồng nhìn tôi, trách: “Tại sao đến giờ đồng chí mới nói?”.

Lúc đó, tôi thưa: “Dạ! Đây là dịp đầu tiên cháu mới có được môi trường Quốc hội để phát biểu”. Sau đó, ông cười rồi lập tức kêu Ông Phan Xuân Đợt (Bộ trưởng Lâm Nghiệp bấy giờ) và ông Nguyễn Đăng (nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp) đưa ra phương án, nhanh chóng sửa sai vấn đề này ngay.

Đến cuối năm 1989, nước ta bắt đầu xuất khẩu gạo. Ngặt cái, trồng lúa ở miền Bắc thì cứ như chống giặc vậy! Vụ đông xuân thì chống rét, hạ chống hạn, thu đông thì chống bão lũ… Lúc đó tôi mới thấy sao nông dân mình khổ quá! Suốt đời cứ chống, đi đánh thế thì bao giờ mới có ăn. Tôi liền nghĩ đến phương án giảm trồng lúa.

Năm 1990, tôi đổi tên “Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển lúa” của mình thành “Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Hệ thống Canh tác”. Trong những lần ra nước ngoài, tôi vận động Australia giúp kinh phí chi Viện Lúa Quốc tế (IRRI) và Canada tài trợ chương trình nghiên cứu khoa học. Về nước tôi mời các khoa Nông nghiệp của đại học Việt Nam thành lập Mạng Lưới nghiên cứu hệ thống canh tác xoay quanh cây lúa cho từng vùng. Chủ yếu là để giảm bớt một, hai vụ lúa nhằm luân canh cây trồng khác hoặc nuôi tôm, cá.

Nhưng cuối cùng dự án đó mãi mãi không thực hiện được…

Sang kỳ họp Quốc hội thứ 8, tôi tiếp tục đề cập vấn đề cắt giảm nhu cầu trồng lúa, chuyển sang canh tác cây ăn quả, thâm canh tôm, cá giá trị cao. Lúc đó, một đại biểu Quốc Hội đứng lên phản bác rất gay gắt: “Mình là con người, con người phải ăn cơm ăn gạo, chỉ có con khỉ mới ăn quả”.

Vậy đó, họ nói tôi như thế đó!

Tôi về, đi ra đồng thì ông nông dân vẫn hỏi: “Bây giờ mình dư nhiều gạo, xuất khẩu nhiều quá rồi, sao nhà nước còn khuyến khích trồng lúa?”. Có lúc tôi không biết trả lời họ câu hỏi đó sao cho phải…

GS Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời” - Ảnh 9.

Một đời người nghiên cứu về cây lúa nhưng năm lần bảy lượt ông lại ủng hộ quan điểm Việt Nam không nên tiếp tục trồng nhiều lúa. Điều đó có mâu thuẫn quá không, thưa ông?

GS Võ Tòng Xuân:  Đúng! Đúng là có lúc tôi từng mâu thuẫn như thế!

Thời điểm năm 1975, chính sách đảm bảo an ninh lương thực khiến dân ta không có lựa chọn nào ngoài chuyện trồng lúa. Miền Bắc thì tập trung lo đê điều, Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ thì thuỷ lợi, ngọt hoá. Hơn 70% kinh phí nhà nước cấp cho ngành nông nghiệp khi ấy chỉ để xây thủy lợi, làm lúa nước.

Dân phá rừng trồng lúa, thậm chí nhà nào có vườn hoa đẹp phải cuốc lên, có vườn trái cây đều đào gốc, trồng rau, khoai. Nhiều gia đình thèm có một cái cây ăn trái lắm, phải lén đắp mô ở trong ruộng, chỗ này một ít, chỗ kia một ít để có cây nhãn, cây xoài ăn chơi.

Bởi khi ấy, chúng ta còn quá ám ảnh cái đói sau 2 cuộc thế chiến! Cái chính sách an ninh lương thực là cần thiết. Nhưng suốt 30 năm, từ khi chúng ta đủ ăn, dư ăn và xuất khẩu gạo rồi, chúng ta vẫn duy trì chính sách ấy, vẫn trồng lúa mọi nơi, thậm chí còn tốn nhiều tiền để ngọt hóa vùng mặn để trồng thêm.

Nếu tôi vì bản thân mình thì tôi đã nhắm mắt cho qua. Nhưng không phải! Tôi đã chứng kiến nhiều câu hỏi không biết trả lời thế nào từ những nông dân như thế rồi.

Đúng như ý nguyện của Bác Hồ “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu”, tôi nghĩ đã đến lúc nhà nước ta, các doanh nghiệp và cả người nông dân đều cần thay đổi.

GS Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời” - Ảnh 10.

Con đường thay đổi đó thực hiện như thế nào?

GS Võ Tòng Xuân: Trước đây, người Việt hay có quan niệm: “Không học thì đi làm nông dân”. Bởi ngày xưa, ông bà ta chỉ làm nông theo hình thức tự phát, kinh nghiệm, bắt chước.

Nhưng giờ Việt Nam đã qua cái thời “thất học ra đồng”! Chúng ta có rất nhiều cơ sở để tri thức hoá người nông dân như các nước châu Âu.

Nói vậy không phải là bắt ông nông dân phải đi học đại học, cao đẳng. Mà ông ấy chỉ cần qua các lớp đào tạo do doanh nghiệp, nhà nước địa phương tổ chức nhằm làm sao cho nguyên liệu do nông dân làm ra đạt đủ tiêu chuẩn yêu cầu thì xem như đã qua lớp và được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện “hành nghề ”.

Thứ hai, trong tương lai gần, với tình trạng hạn mặn và sạt lở diễn ra mạnh mẽ ở ĐBSCL như hiện nay, để phát triển toàn diện thì cần phải giảm lúa gạo. Tại vùng ven biên giới Campuchia, là vùng luôn luôn có đủ nước ngọt và không bị nước mặn xâm nhập, thì chúng ta nên thiết kế 1.2 triệu hecta lúa, trồng 2-3 vụ/năm để đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu một phần.

Còn những tiểu vùng gần biển thì nên trồng lúa vào mùa mưa, mùa nắng có thể kết hợp nước mặn với nước ngọt trộn lại để nuôi tôm, nuôi cá thâm canh hoặc chuyển đổi cơ cấu cây trồng chịu mặn. Vùng giữa thì bắt đầu lên liếp đất để hạn chế nước mặn và có rảnh mương dự trữ nước trong mùa mưa để tưới cho cây trồng trong mùa nắng.

Thứ 3, nhà nước cần nắm được các khuynh hướng nông nghiệp trên thế giới. Từ đó, tạo điều kiện liên kết vùng, nông dân-nông dân (dồn điền -PV), nông dân-doanh nghiệp, doanh nghiệp-doanh nghiệp để sản xuất trên diện tích lớn bằng cơ giới và công nghệ 4.0.

Ngược lại, phía doanh nghiệp phải được đào tạo thành nhà doanh nhân giỏi, là đơn vị tiên phong trong chế biến sản phẩm có thương hiệu, năng nổ khám phá và sẵn sàng tìm đầu ra cho sản phẩm.

GS Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời” - Ảnh 11.

Cuối cùng là công cuộc chiếm lĩnh thị trường 100 triệu dân trong nước. Sự thật là những năm qua, ngành nông nghiệp đang dần chiếm được tình cảm của người tiêu dùng Việt bởi những sản phẩm an toàn vệ sinh, ngon, hấp dẫn, không kém sản phẩm ngoại nhập.

Vậy trong 3 năm thực hiện nghị quyết 120, con đường “thuận thiên” ấy đã để lại cho chúng ta tín hiệu đáng mừng như thế nào rồi, thưa GS?

GS Võ Tòng Xuân: Nông dân các tỉnh ven biển ĐBSCL đã và đang phấn khởi với những vùng chuyển đổi mà Đảng và Nhà nước quy hoạch mới, hàng ngàn hecta lúa-tôm đã đem lại lợi tức gấp 4-5 lần trồng lúa độc canh trước đây.

Bến Tre ngoài cây dừa đã trồng thêm cây ăn trái như bưỡi, xoài, sầu riêng bằng bón phân hữu cơ sinh học chống mặn tốt. Trên các cánh đồng lúa bát ngát ở Châu Đốc (An Giang), Tháp Mười (Đồng Tháp) cũng bắt đầu nhen nhóm những vườn xoài, chuối. Nhiều doanh nghiệp như Vinamit, vua chuối Út Huy, công ty Cỏ May (Đồng Tháp), Trung An (Cần Thơ),… đã áp dụng nông nghiệp “sạch”, chiếm lĩnh thị trường thế giới bằng con đường “chất lượng thắng số lượng.”

Năm 2020, bất chấp đại dịch Covid-19 chúng ta đã xác lập nhiều kỷ lục khi sản phẩm nông nghiệp Việt Nam đã vươn xa tới gần 190 thị trường thế giới, xuất khẩu nông sản đạt mốc 41,2 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay.

Nhiều loại quả như vải thiều, chôm chôm, thanh long, vú sữa, xoài, nhãn… đã có mặt tại những thị trường khó tính nhất như Mỹ, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc…, giá trị còn tăng gấp 20-30 lần so với trong nước.

Về gạo, khối lượng gạo xuất khẩu giảm 3,5% nhưng tăng 9,3% về giá trị, trong đó gạo chất lượng cao chiếm 85% gạo xuất khẩu. Một khoảng thời gian, chúng ta đã vượt hẳng qua Thái Lan. Như hôm qua (ngày 22/2), tôi vừa xem giá gạo thì Việt Nam đạt 536 USD/ tấn, cao hơn hẳng nước bạn.

Đó đều là tín hiệu đáng mừng!

Và từ năm 2020 trở đi, với điều kiện thuận lợi của Hiệp định Thương mại tự do EVFTA, CPTPP… nông sản Việt vào thị trường EU không bị đánh thuế, thì chúng ta có quyền hy vọng con đường đến top 15 nền nông nghiệp hàng đầu thế giới.

GS Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời” - Ảnh 12.

Ở tuổi 81 này, GS còn điều gì trăn trở cho cuộc sống và nền nông nghiệp Việt Nam?

GS Võ Tòng Xuân: Năm 1991, tôi sang Mỹ, có dịp gặp một vài anh bạn người Việt gốc Hoa làm chủ chuỗi siêu thị Á Châu. Ngồi nghe tâm sự, các anh ấy đều nói:“Bây giờ thầy phải làm thế nào đi thầy? Tụi con thèm bán gạo Việt lắm mà Việt Nam không có giống gạo ngon nào, siêu thị tụi con toàn phải mua gạo Thái Lan”.

Câu hỏi ấy cứ theo tôi mãi!

Năm 2019, khi Hồ Quang Cua – sinh viên của tôi, lai tạo thành công “giống gạo ngon nhất thế giới” ST25, tôi mới có thể tự tin giới thiệu với các siêu thị Á Châu.

80 năm cuộc đời, tôi đã đặt chân đến trên 80 nước để mang về những cải tiến cho nền nông nghiệp Việt Nam. Tôi vui khi hoàn thành được những hoài bão. Nhưng sẽ càng hạnh phúc hơn nhiều nếu đi đâu đâu trên khắp thế giới này tôi đều thấy nông sản Việt Nam, thấy người ta hào hứng lựa chọn nó, tôi hay tưởng tượng đến những nụ cười sung sướng của người nông dân đã và đang sản xuất nguyên liệu an toàn, chất lượng để cung cấp cho nhà doanh nghiệp, cùng nhau làm ra những sản phẩm có thương hiệu nổi trội.

Đó là những người tiếp tay làm nên sự giàu có của chính họ và của đất nước Việt Nam.

Bây giờ, mỗi ngày tôi vẫn làm việc bình thường. Nói chuyện với bạn hôm nay, lát nữa sẽ về Cần Thơ để mai gặp sinh viên. Kế hoạch cuối tuần này thì lên Nhà máy đường Gia Lai tính chuyện hợp tác với người dân tộc tại Huyện Eatun trồng cây mía,… Ngày nào còn sức khỏe và trí óc minh mẫn, ngày ấy tôi sẽ còn truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng cho thế hệ sau bấy lâu.

Như Khổng Tử, Trang Tử, Lão Tử của ngày xưa mong muốn tìm người tiếp nối. Tôi chỉ mong một mai sẽ có đôi mắt thay tôi nhìn ngắm những cánh đồng Việt Nam phát triển thế nào…

Xin cám ơn ông vì những chia sẻ chân thành này…

GS Võ Tòng Xuân: “Đừng đổ lỗi cho Trung Quốc nữa, chính chúng ta đang cãi trời” - Ảnh 13.

Bài: Huy HậuẢnh: Hải Long

Thiết kế: Trang Đinh

How Vietnam came to embrace a new vision of the Mekong Delta’s future