30 năm trước (1995) anh Hoành và anh Hữu Thọ (cựu tổng biên tập báo Nhân Dân, sau đó là Trưởng Ban Văn Hóa Tư Tưởng Trung Ương Đảng) đã nói chuyện với nhau rất dài về vấn đề suy đồi đạo đức và gia tăng dối trá ở VN.
Dối trá không chỉ là vấn đề cá nhân, như chúng ta đã thấy trong lịch sử, đôi khi đó là chính sách của quốc gia, ví dụ như trường hợp Huyền Trân Công chúa.
Không thể tập trung vào trị “bệnh dối trá” vì đó là đi sai đường – vì đường đó hấp dẫn thêm dối trá, theo Luật Hấp Dẫn. Phải tập trung vào Hấp Dẫn thành thật. Rốt ráo hơn, phải tập trung vào tĩnh lặng để chữa mọi tật nguyền của chính mình và đất nước.
PTH
- Trị “bệnh dối trá” để ngăn hiểm họa khôn lường (Báo QĐND)
- Nói dối (PTH)
- Làm thế nào để thành thật? (anh Hoành)
- Tĩnh lặng chữa mọi tật nguyền (anh Hoành)
***
Bài dự thi “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới”
Trị “bệnh dối trá” để ngăn hiểm họa khôn lường
QĐND – HUY QUANG – Thứ năm, 06/11/2025 – 05:58
Trước hết cần khẳng định: Không quá lời khi coi dối trá là hiểm họa đối với đất nước, bởi khi “bệnh” này phổ biến trong đội ngũ công quyền, khi cấp dưới “vô tư” nói dối cấp trên mà không thấy ngượng, thậm chí còn được coi là chuyện thường-thì không chỉ sự thật bị bóp méo, cấp trên không nắm được thực trạng, bản chất vấn đề để có quyết sách đúng, mà niềm tin của nhân dân, của quần chúng vào chế độ cũng bị xói mòn nghiêm trọng. Giả dối vừa là biểu hiện của sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vừa là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”…
1. Vô tư… dối trá là thực tế khá phổ biến, diễn ra từ lâu trong nhiều cơ quan, đơn vị công mà có lẽ ai cũng biết. Nghiêm túc và mô phạm, phải mẫu mực làm gương cho học sinh như ngành giáo dục mà nhiều thầy, cô giáo vẫn “vô tư” dối cấp trên (thậm chí trước học sinh và các phụ huynh) khi cố tình nâng điểm và “lờ đi” những vi phạm, khuyết điểm của trường, của lớp vì sợ mất thành tích. Thế hệ trẻ đã hình thành “văn hóa” dối trá từ chính học đường!
Ở các cơ quan, đơn vị, địa phương, khi báo cáo, tổng kết hoặc cấp trên đến kiểm tra thì đa số đều quán triệt tinh thần “đẹp đẽ phô ra, xấu xa đậy lại”. Ai phát biểu thẳng thắn, báo cáo đúng sự thật thì bị coi là bất thường, bị chê trách là dại dột, “tự bôi mỡ vào người cho kiến đốt”(!) Cán bộ nào khéo che giấu khuyết điểm của tập thể, nói hoặc viết báo cáo “tô hồng” thành tích của đơn vị, thì lại được khen (?)
![]() |
| Tranh của MẠNH TIẾN |
Rồi sự dối trá trong các lĩnh vực, công việc cũng ngang nhiên diễn ra, khiến nhiều cán bộ, đảng viên và quần chúng chỉ biết lắc đầu ngao ngán, như: Công trình phúc lợi chưa hoàn thành đã vội tổ chức cắt băng khánh thành; cải cách thủ tục hành chính, chuyển đổi số còn quá nhiều hạn chế, vướng mắc, nhưng báo cáo đã đạt kết quả cao; công tác xóa đói, giảm nghèo, phổ cập giáo dục, giải ngân vốn đầu tư công, tăng trưởng kinh tế… và cả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở-không ít nơi chỉ tốt đẹp… ở trên giấy và phát biểu của cán bộ!
Ngày 3-11 vừa qua, khi Quốc hội thảo luận tại tổ về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thống kê, đại biểu Quản Minh Cường (đoàn Cao Bằng) phản ánh thực tế “số liệu đầu vào đang có vấn đề” và nêu nhiều dẫn chứng, trong đó có ví dụ: Báo cáo khai thác khách du lịch tại thác Bản Giốc là 3 triệu lượt khách/năm, nhưng báo cáo thu vé chỉ vài chục nghìn khách/năm. Không biết tin vào báo cáo nào?
Còn bao chuyện dối trá mà trong khuôn khổ bài báo này không thể kể hết. Từ nói dối, báo cáo “tô hồng” không đúng thực tế, đến làm dối để tư lợi, tham nhũng, tiêu cực là rất gần. Không có gì qua được “tai, mắt nhân dân”, vì thế, quần chúng không “tâm phục, khẩu phục”, dần mất niềm tin vào sự trung thực của cán bộ và cấp ủy, chính quyền. Đây là điều nguy hiểm nhất vì cổ nhân đã đúc rút “mất niềm tin là mất tất cả”! Chưa kể, hệ lụy của thói dối trá còn là các quyết sách sẽ không sát thực, kém hiệu quả do bị cung cấp thông tin sai; làm băng hoại đạo đức công vụ, khiến đội ngũ trì trệ, không dám đổi mới, sáng tạo vì “nói thật thì sợ mất lòng”…
2. “Bệnh dối trá” hiểm họa khôn lường! Vì thế, muốn trị bệnh này, trước hết cần phải nhận thức rõ sự nguy hại của nó, nhìn thẳng vào nguyên nhân gây ra và quyết tâm “tuyên chiến” bằng những biện pháp quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả.
Phải chăng, nạn dối trá được bắt nguồn từ “bệnh thành tích”: Khi thi đua-khen thưởng vẫn nặng về hình thức, không đánh giá thực chất, không phân minh “công to bù lỗi nhỏ”; khi những bản báo cáo “đẹp” được xem là điều kiện tiên quyết để được xem xét, được khen; khi những hạn chế, khuyết điểm dù được tập thể, cá nhân thẳng thắn tự nhận và quyết tâm khắc phục, sửa chữa nhưng vẫn bị loại khỏi danh sách khen thưởng, thậm chí còn lấy đó làm ví dụ để “bêu dương”, vùi dập… thì ai dại gì nói thật?
Phải chăng, vì không ít vị cán bộ cấp trên thích tâng bốc, khen nịnh hơn những lời nói thật, thậm chí còn thâm thù, trù dập người nói thẳng thật, nên dối trá càng được đà “lên ngôi”, rồi trở thành “kinh nghiệm”, “nghệ thuật sống” và nhiều người cố gắng học tập?
Phải chăng, nhiều cán bộ cấp trên biết thừa cấp dưới “làm láo nháo, báo cáo hay” nhưng chẳng nhíu mày, không chất vấn, tra hỏi; bởi đã cùng một giuộc, sợ ảnh hưởng đến thành tích chung và uy tín của chính mình, thậm chí bị “miếng thịt bịt miệng”?
Phải chăng, vì không ít cán bộ cấp trên thích thể hiện, thích “hoành tráng” nên đưa ra các mục tiêu, chỉ đạo, yêu cầu vượt quá khả năng, cấp dưới không thể thực hiện được và cũng không dám phản biện, nên đành nói dối để đối phó?
Còn nhiều nguyên nhân nữa dẫn đến “bệnh dối trá”, nhưng không thể không nhắc đến trách nhiệm của các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát. Sự “thông cảm”, thỏa hiệp, bỏ qua… ở khâu lẽ ra phải có trách nhiệm thường xuyên và cuối cùng với yêu cầu công minh, chính xác, nghiêm túc này, khiến “virus” dối trá càng được đà… phát triển.
Để chữa trị dứt điểm “bệnh dối trá”, phải khôi phục vị trí xứng đáng cho sự trung thực; quyết liệt triển khai những giải pháp “điều trị” tận gốc những nguyên nhân gây ra “bệnh” nguy hiểm này.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Bác Hồ đã chỉ rõ: “Nơi nào sai lầm, ai sai lầm, thì lập tức sửa chữa. Kiên quyết chống thói nể nang và che giấu”. Đảng ta cũng yêu cầu: “Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đánh giá đúng sự thật” và gần đây còn có cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo và dám hành động vì lợi ích chung. Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã nhiều lần chỉ đạo phải nói thẳng, đánh giá đúng thực tế vì có như thế mới sửa được những tồn tại, hạn chế… Thế nên không thể để “bệnh dối trá” tiếp tục tồn tại gây nguy hại cho đất nước, làm mất niềm tin của nhân dân vào chế độ ta và là cái cớ để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.
***

Nói dối
Chào các bạn,
“Theo nghiên cứu của Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Trần Ngọc Thêm, bệnh giả dối đứng hàng đầu trong 34 tật xấu của người Việt, chiếm đến 81%.” (Trích giaoducvn.net.vn, Người Việt nói dối: Con số và viễn cảnh.)
“Còn theo điều tra của Viện nghiên cứu phát triển giáo dục thì tỷ lệ nói dối cha mẹ của học sinh tiểu học là 22%, học sinh trung học cơ sở là 50%, học sinh trung học phổ thông là 64% và sinh viên đại học là 80%!” (Trích dantri.com, Giáo sư Trần Ngọc Thêm: Bệnh ưa thành tích và bệnh giả dối trong giáo dục rất nặng.)
Vậy tỷ lệ nói dối của người lớn đi làm là bao nhiêu? 90%? Hay 99%?
Nói dối không chỉ là vấn đề cá nhân, như chúng ta đã thấy trong lịch sử, đôi khi đó là chính sách của quốc gia, ví dụ như trường hợp Huyền Trân Công chúa.
Huyền Trân Công chúa (1287-1340) là con gái của vua Trần Nhân Tông, là em gái của vua Trần Anh Tông, và là vợ của vua Chiêm Chế Mân.
Trần Nhân Tông (1258-1308) là vua Đại Việt thứ ba của nhà Trần (trước đó là Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông), và là Sơ tổ của dòng thiền Trúc Lâm. Sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử tu thiền, và tập hợp ba dòng thiền tại Việt Nam lúc đó là dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci), dòng Vô Ngôn Thông, và dòng Thảo Đường, thành Thiền phái Trúc Lâm, còn tồn tại cho đến ngày nay với Trúc Lâm Thiền Viện ở Đà Lạt do thiền sư Thích Thanh Từ chủ trì.
“Theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục (quyển VIII), vào tháng 3 năm Tân Sửu (1301)”, sau khi truyền ngôi cho con, vua Trần Nhân Tông (lúc này là thiền sư) sang Chiêm Thành, rồi “hứa gả Công chúa Huyền Trân cho vị vua phương Nam là Chế Mân. Mãi đến tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) tức 5 năm sau, Chế Mân dâng hai châu Ô và Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên Huế đến phía bắc Quảng Trị ngày nay) làm sinh lễ, Huyền Trân Công chúa chính thức lên xe hoa về nhà chồng.” (Trích trungtamhuyentran.thuathienhue.gov.vn, Đức vua Chế Mân và cuộc hôn nhân với Huyền Trân Công chúa.)
Với vua và dân Chiêm Thành, cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân Công chúa và vua Chiêm có phải là hôn nhân và hai người đó có phải là vợ chồng hay không thì không rõ, nhưng rõ ràng là với vua và dân Việt, đó là cuộc đổi chác – đổi con gái để lấy đất đai. Cuộc đổi chác càng rõ hơn khi vua-sư Trần Nhân Tông hứa gả con gái nhưng không gả, cho đến khi Chế Mân mang đất đai ra thì đồng ý gả. Đó là dùng con gái để đổi lấy đất đai.
Thật sự trong văn hóa pháp lý ngày nay, đó là buôn người – bán một cô con gái với giá của hai châu Ô, Lý. Buôn người là phi pháp ngày nay tại mọi quốc gia trên thế giới.
Sau khi công chúa cưới chồng và ở nước chồng, một năm sau chồng chết, công chúa được/bị anh trai là vua Trần Anh Tông sai người đưa về.
Theo Đại Việt sử ký chép lại, Trần Anh Tông khi đó nghe rằng theo tục nước Chiêm, Quốc vương chết thì Vương hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Trần Anh Tông liền cử Hành khiển Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu công chúa. Trần Khắc Chung thành công, cứu được công chúa và đưa xuống thuyền, đưa công chúa về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm.
Đó là vừa bất trung vừa bất tín.
Huyền Trân công chúa có thể rất muốn giữ đạo nghĩa vợ chồng với vua Chiêm, công chúa có thể cũng muốn chết theo chồng hoặc muốn thờ chồng vài ba năm ở nước chồng. Công chúa cũng muốn trung thành với chồng. Nhưng vua Trần Anh Tông đã không để công chúa trung thành với vua và với chồng – vua Chế Mân.
Hơn nữa, vua Trần Anh Tông bất tín với em rể. Đã đồng ý dùng em gái đổi lấy đất đai, khi vua-chồng em gái vừa chết, ngay lập tức cướp em gái về, cũng không chịu trả lại đất đai. Đó có phải là dối trá không?
Đó là bất trung bất tín với người trong nhà, cũng là bất trung bất tín trong liên hệ quốc tế. Đó là dối trá với người trong nhà, cũng là dối trá trong liên hệ quốc tế.
Hãy gọi Chúa Quỷ bằng chính tên của hắn – Call the Devil by the name. Hãy gọi dối trá bằng đích danh Dối Trá.
Người lớn nói dối thì con trẻ sẽ nói dối. Người lớn không thể vừa nói dối vừa yêu cầu con trẻ thành thật. Người lớn muốn con trẻ thành thật và trở thành một người thành thật, người lớn phải thành thật.
Chúng ta không thể thành thật và không thể dạy trẻ em và người trẻ thành thật nếu người lớn nói dối cả ngày. Muốn mọi người trong đất nước thành thật, người lớn phải thành thật trước, và những người trẻ sẽ tự động bắt chước thành thật theo.
Chúc tất cả mọi chúng ta luôn thành thật.
Phạm Thu Hương
***
Làm thế nào để thành thật
Chào các bạn,

Trong một phim xi-nê mình xem đã khá lâu, một nhóm khoa học gia tạo dựng một đứa bé, hình như là bằng cloning (tạo từ tế bào mẫu) thì phải. Đứa bé lớn lên khỏe mạnh và bắt đầu biết nói như bình thường. Rồi một hôm nọ, đứa bé nói dối một câu gì đó, đó là câu nói dối đầu tiên em nói, và cả nhóm khoa học gia nhảy lên vui mừng, “Ô, nó nói dối, nó nói dối. Nó đã biết nói dối rồi.” Và đó là bằng chứng trí óc em đã tiến triển tốt, đến mức thông thái hơn.
Phải chăng đó là sự phát triển tự nhiên của tâm trí con người. Trẻ em thì không biết nói dối. Bắt đầu khoảng 3 tuổi là đã học được nói dối chút xíu, thông thường là vì làm gì đó, như là làm vỡ cái gì đó, và không dám nhận tội với bố mẹ. Và càng lớn, khả năng nói dối càng tăng lên cao độ, đến mức thành nghệ thuật trong mọi lãnh vực nghề nghiệp, như là PR, tiếp thị, biện hộ, “đào mỏ”, hay lãnh đạo chính trị. Và rất nhiều người trong chúng ta nói dối một ngày 24 tiếng mà không thấy ngượng miệng, mà cũng có thể là không biết mình nói dối, cũng như người chửi thề quen miệng, mở miệng là chửi thề mà không biết là mình đang chửi thề 3 câu trong một câu nói.
Trong bài Tư duy tích cực và chiều sâu con tim, chúng ta đã nhắc đến năm đức tính làm người của Khổng tử, có thể đại diện cho mọi đức tính làm người trong mọi nền triết lý khác—nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Và chúng ta có nói:
“Phan Bội Châu trong quyển Khổng Học Đăng có nói chữ “nhân” bao gồm tất cả các chữ khác. Và năm chữ “ngũ thường” này đi theo thứ tự quan trọng của nó: Nhân lễ nghĩa trí tín. Mất Nhân thì phải dùng Lễ. Mất Lễ thì phải dùng Nghĩa. Mất Nghĩa thì phải dùng Trí. Mất Trí thì phải dùng Tín.
“Theo mình thấy trong mấy mươi năm nay, ở nước ta, và ở cả nhiều nơi trên thế giới, có một luồng văn hóa tích cực dạy người ta không thành thật, tức là sống mà bỏ chữ tín, bỏ cái thành thật đi, sống theo kiểu giành giật lươn lẹo, và cho đó là thức thời.
“Chính sức mạnh dữ dội của luồng văn hóa đó đã gây ra bao nhiêu dối trá trộm cắp trong xã hội. Chúng ta phải đứng vững, vận động gạt luồng văn hóa đó ra ngoài, trước hết là trong tim mình, sau đó là thuyết phục những người chung quanh.
“Chữ Tín là thành trì cuối cùng, chữ cuối cùng, trong đạo làm người; mất chữ này là ta đã mất hết cả năm chữ của đạo làm người.
“Đây là vấn đề lớn cho đất nước và cho cả guồng máy giáo dục (vì thế, ta có chiến dịch nói “Không” với tiêu cực trong giáo dục). Chúng ta phải vững tâm để xua luồng văn hóa dối trá đi xa. Nếu không thì rất khó phát triển đất nước. Chỉ trong một ngôi trường nhỏ, thiếu chữ tín là bao nhiêu xào xáo đã xảy ra rồi, huống chi là cả một nước.”

Trong phát triển kinh tế, chính trị, hay thương mãi, chữ tín cực kỳ quan trọng. Nếu nhà nước nói mà dân không tin, thì chẳng chính sách nào có thể thành công. Nếu người tiêu thụ không tin công ty, thì công ty sập tiệm. Nếu bạn có danh tiếng là lời nói không đáng tin, thì rất khó để tìm việc hay làm ăn.
Nhưng làm sao ta thành thật?
1. Thành thật với chính mình
Người thứ nhất ta cần thành thật là với chính mình. Bạn đã gặp người nào cứ mở miệng ra là làm người khác bực mình, hoặc vì nói chuyện đâm chọc, hoặc vô duyên, hoặc thiếu tế nhị, hoặc kiêu căng… nhưng người đó hầu như chẳng bao giờ biết mình có tật đó không?
Biết mình không phải là việc dễ.
Mình phải dành thời gian yên lặng mỗi ngày, quán sát mình một tí xem mình có kiêu căng không, có hay thiếu thành thật không… Nếu mình không có “thời gian mỗi ngày để quán sát mình”, dù là chỉ vài phút, thì mình không thể thành thật với chính mình, vì mình không thể biết được là mình không thành thật đến mức nào. Mà nếu ta không thành thật với chính mình, thì bảo đảm là ta không thành thật với cả thế giới. Cho nên thành thật với chính mình là điểm khởi đầu. Nếu bạn không khởi đầu nơi này, thì nên bỏ luôn đọan sau vì không thể có đoạn sau nếu không có điểm khởi đầu.
2. Thành thật với người khác
• Công thức căn bản thì quá dễ, phải không các bạn? Nói thật có nghĩa là nói sự thật; không dối trá. Cái bàn màu xanh thì nói là màu xanh, đừng nói là màu đỏ. Giản dị thế thôi. Đừng bóp méo sự thật để thổi phòng mình lên như là “Tôi là sinh viên cao học” trong khi mình đang học năm thứ hai đại học thôi. Không biết thì nói là không biết, biết thì nói là biết. Có gì là phức tạp đâu?

• Đôi khi, có một loại “nói thật” nhưng thực ra là đánh lạc hướng để người nghe hiểu lầm sự thực. Đây gọi là misleading. Ví dụ: “Các bạn bước vào tiệm đầu tiên ngày thứ 7 này sẽ mua được HP computers với giá hạ 50% , cho đến khi hết hàng.” Sáng thứ bảy, 500 người sắp hàng trước khi tiệm mở cửa, mở cửa ra, 500 người chen lấn ùa vào để giành giật chỉ có 2 HP computers trong đó. Đó là quảng cáo misleading, và đó là phi pháp, vì đa số mọi người không nghĩ là cả một chiến dịch cho cả mấy trăm người sắp hàng chỉ có 2 món hàng (Có thể là 10 hay 15 computers thì hợp lý hơn). Nếu ông tòa nào đó, cho rằng đó là hợp pháp, thì nó cũng vẫn vi phạm đạo đức thương mãi. Và dĩ nhiên, là với các công ty lươn lẹo như vậy, các bạn nên tự hỏi là có tin tưởng được để mua hàng của họ không.
• Tuy nhiên, thành thật không có nghĩa là nói bậy.
— Nói bậy ta thường nghe nhất là “Để tui thành thật nói điều này cho bà nghe…” rồi tiếp theo là một màn phê phán làm người ta tối tăm mày mặt. Chữ “thành thật” không thể được dùng để xúc phạm người khác như thế, nhất là đối với bạn bè hay người thân của mình. Thành thật không có nghĩa là lạm dụng. Thành thật là nội dung, cách trình bày nhã nhặn làm mát lòng người là hình thức. Có phở ngon cũng không thể bỏ vào chậu rửa chân mời bạn ăn.
— Có nhiều chuyện không thể nói, vì nó liên hệ đến bí mật thương mãi của công ty hay bí mật quốc phòng, hay chuyện đời tư người khác, hay chuyện người khác tâm sự riêng với mình… không thể nói ra được. Thành thật không phải là “đài phát thanh chợ Cầu Muối.” Cái miệng nói lảm nhảm sẽ kiện cái thân. Đó là vô trách nhiệm, vô ý thức, chứ không phải thành thật.
• Thành thật không có nghĩa là ngu. Bí mật làm ăn, bí mật chiến đấu, không thể cho địch thủ biết được. Trong chiến trận người ta thường hay misleading địch thủ bằng các đòn như là dương đông kích tây, thực mà hư hư mà thực… Đây là vấn đề rất phức tạp về nghệ thuật chiến đấu. Theo quan sát và kinh nghiệm của mình thì nếu ta rất giỏi biến hóa, ta chẳng cần phải nói dối một câu nào, chỉ cần nín thinh, thì các đòn phép chiến đấu của mình người khác không thể lường được, chỉ vì nó biến hóa quá nhanh.
Thực ra trong chiến đấu, làm cho địch thủ tin vào sự thành thật trong lời nói của mình rất quan trọng. Ví dụ: Mình nói, “Nếu anh không bằng lòng rút thì tôi buộc sẽ tấn công;” địch thủ mình phải tin là mình sẽ làm đúng như thế. Nếu không thì mình chẳng điều đình được việc gì. Hoặc là mình nói, tôi sẽ chiến đấu đến lúc thắng hoặc chết, địch thủ mình phải tin là mình sẽ làm như thế, để liệu mà một là chuẩn bị đánh nhau trí chết, hai là làm hòa với mình bây giờ.
Đó là chưa kể ta sống trong thế giới nhiều người, ngay cả khi hai người đối đầu, nếu ta dối trá với đối phương thì chỉ làm cho đa số thiên hạ bàng quang bỏ ta mà ủng hộ đối phương.
• Thành thật không có nghĩa là tin người. Giang hồ hiểm hóc. Thành thật nghĩa là nói ra câu nào thì đúng sự thật câu đó; chuyện không nên nói thì không nói. Nhưng thành thật không có nghĩa là ai nói gì cũng tin. Đó là khờ khạo chứ không phải thành thật. Điều này thì bạn phải “khôn kiểu đường phố” (street wise) một tí.
Tập lắng nghe cho kỹ, đọc email cho kỹ, nhìn cho kỹ, để khi người ta nói cái gì đó có vẻ thiếu thành thật là mình nhận ngay. Không thấy được sự dối trá của người là khờ, chứ không phải thành thật. Nhưng, biết người dối trá, không có nghĩa là mình phải dối trá lại. Cũng như biết người sắp cướp, mình nhận ra để tránh bị cướp, chứ không phải để mình cướp họ.
• Nói chung là, thành thật có nghĩa là nói câu nào là mình muốn người nghe hiểu đúng câu đó và câu đó đúng sự thật. Chuyện nào không thể nói được thì đừng nói, không cần thiết phải nói dối. Cũng không nói chỉ một phần tí xíu của một sự thật, và che dấu các phần còn lại, chỉ để đánh lạc hướng và lừa người khác.
Trong chiến đấu, người ta thường làm cho địch thù không nhận ra được sự thật, cho nên người ta dối trá nhiều. Tuy nhiên, người giỏi biến hóa, chuyển động chớp nhoáng, thì không cần dối trá trong chiến đấu. Và người dối trá vẫn bị thiệt thòi trong chiến trận, vì dối trá thì không thể điều đình được với địch thủ–không ai muốn điều đình với người dối trá. Mà trong chiến đấu, như binh pháp Tôn gia nói, “không đánh mà thắng” mới là tướng giỏi–không đánh là thắng bằng điều đình, thắng bằng cách nói.
Thành thật cũng không có nghĩa là khờ khạo, ai nói gì cũng tin theo mà không nhận ra các dấu hiệu khả nghi. Thành thật không có nghĩa là đi đâu cũng nhắm măt, bịt mũi, che tai.
Thành thật sẽ làm cho người tin ta. Mà nhiều người tin ta thì nhất định là phải thành công, vì trong liên hệ con người trong xã hội, chẳng có gì được mọi người quí trọng hơn thành thật.
Chúc các bạn một ngày vui.
Mến,
Hoành
© copyright TDH, 2009
www.dotchuoinnon.com
Permission for non-commercial use
Bài liên hệ: Tư duy tích cực và chiều sâu con tim, Giữ mình làm lãnh đạo, Bảo trọng bản tính chân thật.
***
Tĩnh lặng chữa mọi tật nguyền
Chào các bạn,
Mỗi người chúng ta có một số thói xấu, mà ta phải gọi là tật nguyền thì mới đúng, vì chúng làm cho ta trở thành tật nguyền trong cách sống—nổi nóng, kiêu căng, thích chỉnh người khác, thích đì người khác, lo sợ, ghen ghét, đố kỵ, nói dối, thích phóng đại, v.v… Nếu nói về tật nhỏ tật lớn, mỗi người có thể có hơn mười tật một cách dễ dàng.
Nếu ta phải chữa từng tật một cho cả hơn mười tật như thế thì rất là mệt mỏi. Nhiều khi cả 10 năm chưa chữa xong được một tật, nói gì đến các tật kia.
Hơn nữa, khi ta tập trung vào “chữa bệnh ta hay ghen ghét” chẳng hạn, thì “ghen ghét” là tiêu cực và càng tập trung vào “ghen ghét” như thế, thì “ghen ghét” lại càng đến, chẳng giảm tí nào. Đó là Luật Hấp Dẫn. (Từ “chữa bệnh” không có hiệu năng gì trong Luật Hấp Dẫn. Từ chủ lực của câu nói—“ghen ghét”—là từ “hoạt động” trong Luật Hấp Dẫn).
Cho nên ta phải tập trung tâm trí vào 1 điều tích cực có thể chữa các tật nguyền tiêu cực của ta.
Tất cả các tật nguyền tâm lý đều có từ một gốc mà ra—đó là tâm xung động. Tâm của ta xung động, thì chạm nhẹ đến là nó nhảy lung tung, đủ mọi kiểu nhảy disco, techno, salsa… thời thượng—sân hận, lo sợ, ghen ghét, v.v…
Cho nên muốn một lúc điều trị hết một loạt các tật nguyền thì chúng ta chỉ cần tập trung chiến thắng tâm xung động, tức là tập trung vào tu tập tâm tĩnh lặng.
Tu tập tâm tĩnh lặng cho ta hai điều quan trọng:
1. Tĩnh lặng là gốc để chữa mọi tật nguyền xung động.
2. Khi ta tập trung vào tĩnh lặng, là ta tập trung vào tích cực, và do đó ta sẽ tạo ra năng lượng tích cực, và sẽ Hấp Dẫn “tĩnh lặng” đến.
Sự thật là, tĩnh lặng là trung tâm và là toàn thể của tu tập Tư Duy Tích Cực. Tĩnh lặng quan trọng đến mức mà nếu bạn không luyện tập tĩnh lặng nghiêm chỉnh, bạn có thể đọc hết hơn 1000 bài trà đàm trên ĐCN và cũng chẳng hiểu gì đúng cả.
Tập tĩnh lặng thì có 3 điều chính:
1. Lấy Thiền định hay cầu nguyện làm gốc, một trong những cách sau đây:
• Ngồi thiền, tập trung vào hơi thở.
• Trì tụng một câu chú, như “Om Mani Padmi Hum” và tập trung vào âm thanh và năng lượng do câu chú tạo ra. (Đọc chú thì phải đọc ra âm. Nhất là đọc chậm và to để tạo ra đúng tần số âm thanh trong đầu).
• Niệm Phật, như “Nam mô A di đà Phật” và tập trung vào hình ảnh Phật A di đà, và hình ảnh Phật của chính mình ngồi bên cạnh Phật A di đà. Đây là quán tưởng Phật tính của chính mình.
• Đọc kinh, nhất là các bài kinh ngắn, đọc đi đọc lại nhiều lần, như là lần hạt mân côi trong Công giáo, lấy Kinh Kính Mừng làm chủ lực. Đọc kinh và đặt tâm trí vào từng chữ của lời kinh.
• Cầu nguyện để “nương tựa” và “noi gương”. Nương tựa vào Chúa/Phật/Quan Âm Bồ Tát/Đức Mẹ Maria/Allah/Ông Trời/Bà Trời… Và noi gương vị nào mà mình đang cầu nguyện đó, cố gắng sống như vị ấy sống—yêu thương, an bình, tĩnh lặng…
2. Chậm lại trong mọi hành động của mình hàng ngày
Nói chuyện hay tranh luận thi chậm lại, đừng quá hăng hái, thì dễ kiểm soát thái độ của mình hơn. Gặp chuyện bức xúc, điên tiết quá, muốn đấm hắn ngay cho đã giận, thì chậm lại, tìm chỗ vắng Thiền hay cầu nguyện một lúc. Ra đường luôn luôn có khuynh hướng chạy xe như ăn cướp, thì tự ép mình chạy chậm lại, tưởng tượng đang chở bà bầu 8 tháng, chạy dịu dàng cẩn thận. Muốn có một triệu đô la ngay (và chắc là phải đi ăn cướp) thì chậm lại, tin rằng con rùa kiên nhẫn của La Fontaine sẽ có một triệu đô la một ngày nào đó.
3. Yêu mọi người vô điều kiện
Nếu không yêu được thì cũng tập thói quen khi nhìn một người thì tự động tập trung vào cái hay của người ấy (Mọi thứ hay của mọi người, không chỉ là môi cười chúm chím chim sa cá lặn của cô nàng mà mình đang trồng cây si! Và cũng đừng bao giờ nói “Anh ơi, em tìm mãi mà con khỉ khô đó chẳng có gì hay cả. Em nói thật đó!”).
Tất cả mọi phương cách thiền định và cầu nguyện sẽ vô ích nếu ta không yêu mọi người vô điều kiện—vì “ghét người”, dù ta cho là đúng hay sai, thì cũng là tâm xung động.
Tĩnh lặng chữa mọi tật nguyền.
Chúc các bạn một ngày tĩnh lặng.
Mến,
Hoành
© copyright 2011
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com

