Background: Historically, medical studies have excluded female participants and research data have been collected from males and generalized to females. The gender gap in medical research, alongside overarching misogyny, results in real-life disadvantages for female patients. This systematic scoping review of the literature aims to determine the extent of research into the medical research sex and gender gap and to assess the extent of misogyny, if any, in modern medical research.
Methods: Initial literature searches were conducted using PubMed, Science Direct, PsychINFO and Google Scholar. Articles published between January 01, 2009, and December 31, 2019, were included. An article was deemed to display misogyny if it discussed the female aesthetic in terms of health, but did not measure health or could not be utilized to improve clinical practice.
Results: Of the 17 included articles, 12 examined the gender gap in medical research and 5 demonstrated misogyny, assessing female attractiveness for alleged medical reasons. Females remain broadly under-represented in the medical literature, sex and gender are poorly reported and inadequately analyzed in research, and misogynistic perceptions continue to permeate the narrative.
Conclusion: The gender gap and misogynistic studies remain present in the contemporary medical literature. Reasons and implications for practice are discussed.
Since it came on the scene, magnetic resonance imaging (MRI), where a magnetic camera looks through the skull and captures pictures of a living brain, mountains of neuroimaging studies have been made by scientists eagerly delving into the most complex organ we have. It’s led to amazing discoveries and insights, and revolutionised our understanding of how we function.
But the neuroscientific investigation into brain health in relation to conditions only affecting women, girls, and people who have or have had menstrual periods, has been comparably pitifully small.
My name’s Livia. I’m a freelance science writer and journalism student, and I found myself diving into this as I wondered why hormonal birth control, several decades after its invention, still causes negative effects on many users’ moods and well-being. Shouldn’t somebody have looked into how our brains get affected when we go on the pill — and created something better?
It turns out that this large neuroscience knowledge gap leaves billions of people in the dark about the organ that creates their lived experiences, affects drug development, and is bad for science, generally.
When broadcaster Sandi Toksvig was studying anthropology at university, one of her female professors held up a photograph of an antler bone with 28 markings on it. “This,” said the professor, “is alleged to be man’s first attempt at a calendar.” Toksvig and her fellow students looked at the bone in admiration. “Tell me,” the professor continued, “what man needs to know when 28 days have passed? I suspect that this is woman’s first attempt at a calendar.”
Women have always tracked their periods. We’ve had to. Since 2015, I’ve been reliant on a period tracker app, which reassures me that there’s a reason I’m welling up just thinking about Andy Murray’s “casual feminism”. And then there’s the issue of the period itself: when you will be bleeding for up to seven days every month, it’s useful to know more or less when those seven days are going to take place. Every woman knows this, and Toksvig’s experience is a neat example of the difference a female perspective can make, even to issues that seem entirely unrelated to gender.
For most of human history, though, that perspective has not been recorded. Going back to the theory of Man the Hunter, the lives of men have been taken to represent those of humans overall. When it comes to the other half of humanity, there is often nothing but silence. And these silences are everywhere. Films, news, literature, science, city planning, economics, the stories we tell ourselves about our past, present and future, are all marked – disfigured – by a female-shaped “absent presence”. This is the gender data gap.
These silences, these gaps, have consequences. They impact on women’s lives, every day. The impact can be relatively minor – struggling to reach a top shelf set at a male height norm, for example. Irritating, certainly. But not life-threatening. Not like crashing in a car whose safety tests don’t account for women’s measurements. Not like dying from a stab wound because your police body armour doesn’t fit you properly. For these women, the consequences of living in a world built around male data can be deadly.
The gender data gap is both a cause and a consequence of the type of unthinking that conceives of humanity as almost exclusively male. In the 1956 musical My Fair Lady, phoneticist Henry Higgins is baffled when, after enduring months of his hectoring put-downs, his protege-cum-victim Eliza Doolittle finally bites back. “Why can’t a woman be more like a man?” he grumbles.
Để đỗ trạng nguyên, nho sinh thường phải trải qua quá trình học tập vất vả, thuộc lòng nhiều sách kinh nghĩa, thông thạo làm thơ phú, ứng đối.
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, nền khoa cử nước ta bắt đầu từ năm 1075, dưới thời vua Lý Nhân Tông.
Trong buổi đầu, thể lệ thi cử chưa ổn định. Về sau, theo sự phát triển của giáo dục và khoa cử, thể lệ thi cử ngày càng đi vào nền nếp, khuôn khổ, gồm 3 kỳ thi là Hương, Hội, Đình.
Nhiều vòng thi nghiêm ngặt
Thi Hương được tổ chức quy mô tỉnh hoặc liên tỉnh để chọn người vào thi Hội. Theo sách “Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ”, kỳ thi Hương thời Nguyễn có ba vòng (tam trường) hoặc bốn vòng (tứ trường).
Tuyên bố chung của Đại diện Cấp cao của Liên minh châu Âu và Tổng thư ký Hội đồng châu Âu
Án tử hình là một hình phạt, một cách đối xử vô nhân đạo, hạ thấp và thể hiện sự phủ nhận nhân phẩm con người.
Nhân Ngày châu Âu và Thế giới chống án tử hình, Liên minh châu Âu (EU) và Hội đồng châu Âu tái khẳng định mạnh mẽ sự phản đối rõ ràng của chúng tôi đối với án tử hình, hoặc việc tái áp dụng án tử hình, trong mọi trường hợp và trong mọi hoàn cảnh.
Luật này quy định chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình.
1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con.
4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
5. Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình.
Khoa học hiện đại đã cho thấy là tình trạng sạch sẽ của răng và miệng (oral hygiene – tiếng Anh) có ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ con người. Ca dao tục ngữ tiếng Việt cũng đề cao tính chất của hàm răng như ‘răng long đầu bạc; thứ nhất đau mắt, thứ nhì nhức răng; cái răng cái tóc là góc con người …’, qua đó ta có thể thấy được phần nào vẻ đẹp (ngoại hình) và sức khoẻ toàn diện con người. Trong truyền thống người Việt, chăm sóc răng không đòi hỏi gì nhiều: từ nhỏ thì dùng tăm, khi lớn thì dùng cau khô …v.v… Các tài liệu cổ của Phật giáo cũng kêu gọi tăng ni cần để ý chăm nom sức khoẻ mình, đặc biệt là miệng và răng.
Bài viết này chú trọng đến điều thứ 8 (hay chương 8) của cuốn Nam Hải Kí Quy Nội Pháp Truyện do pháp sư Nghĩa Tịnh soạn vào khoảng đầu thập niên 690, điều 8 có tựa đề là Triêu tước xỉ mộc 朝嚼齒木 (sáng sớm phải nhai/chà răng – tạm dịch/NCT). Một số Hán và Phạn tự được ghi lại để tránh trường hợp tối nghĩa và tiện cho người đọc tra cứu thêm khi cần.
This is the first frost to appear on the Fansipan Mountain this year, creating a beautiful scene.
Frost covers every treetop on Fansipan peak. — VNA/VNS Photos Hương Thu
LÀO CAI — Due to the cold air plunging temperature below 0 degrees Celsius, frost has appeared on the top of Fansipan Mount in Sa Pa Town, the northern mountainous province of Lào Cai, from 5:30am on Sunday, according to the Sun World Fansipan Legend Tourist Area Management Board.
One year after Việt Nam and the US upgraded their ties to a Comprehensive Strategic Partnership, the two countries have enjoyed thriving cooperation across multiple domains, US Ambassador to Việt Nam Marc E. Knapper told the Vietnam News Agency.
Marc E. Knapper, Ambassador of the United States to Việt Nam. — VNS Photo
One year after Việt Nam and the US upgraded their ties to a Comprehensive Strategic Partnership, the two countries have enjoyed thriving cooperation across multiple domains, US Ambassador to Việt Nam Marc E. Knapper told the Vietnam News Agency.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, nước ta có khoảng 1,2 triệu ha đất bị suy thoái nặng, 3,8 triệu ha đất suy thoái trung bình và 6,8 triệu ha đất suy thoái nhẹ. Vùng có diện tích đất suy thoái lớn nhất là Trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung.
Vân Anh nói chưa bao giờ trải qua những cảm xúc dữ dội như khi mẹ chồng đưa tờ giấy “khước từ tài sản”, yêu cầu cô ký.
Trong cuộc họp gia đình cuối tháng 11, bố mẹ chồng Vân Anh tuyên bố sẽ cho con trai họ một mảnh đất với điều kiện chỉ đứng tên chồng cô để “tránh phức tạp pháp lý có thể xảy ra”.
Yêu cầu này khiến cô con dâu 36 tuổi “ngỡ ngàng, xấu hổ và cảm thấy ê chề như một kẻ bị phản bội”. Hơn 12 năm về làm dâu, cô thay mẹ chồng gánh vác mọi trách nhiệm trong nhà cũng như trong dòng họ. Khi ông bà ốm đau, Vân Anh cũng chăm lo chu đáo. Trước mặt họ hàng, mẹ chồng cô từng khẳng định “coi con dâu như con gái”.
“Tôi thấy mình bị hắt hủi. Đó cũng là lúc tôi biết mình phải sống cho bản thân nhiều hơn, không cần hy sinh thêm vì nhà chồng nữa”, bà mẹ hai con nói.
The Vietnamese government has decided to ban the production, trade, import, storage, transportation and use of electronic cigarettes, heated tobacco products, gases, and addictive substances that pose a risk to human health, starting in 2025. Let’s hear what people have to say about this issue.
Người đầu tiên tại châu Á được Tòa Thánh Vatican trao tước phẩm Hiệp sĩ Đại Thánh giá là ông Gioan Baotixita Lê Đức Thịnh, giáo dân Giáo xứ Phúc Nhạc, xã Gia Tân 3, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai (tháng 11-2007). Đến nay, ông Lê Đức Thịnh đã có hành trình hơn 40 năm kết nối yêu thương, đoàn kết, hòa hợp dân tộc và dấn thân vì một xã hội phát triển.
“Hãy bắc cầu, đừng xây tường”
Lần đầu tiếp xúc với Hiệp sĩ Đại Thánh giá Lê Đức Thịnh cách nay hơn 6 năm trong dịp chúng tôi cùng lãnh đạo TPHCM đi thăm, chúc mừng Giáng sinh, là lúc ông vừa trải qua thời gian điều trị bệnh nan y, sức khỏe chưa hồi phục hẳn. Thế nhưng, như ông nói: “Tôi vừa đi thăm bà con mình ở Nghệ An, Hà Tĩnh, sắp tới tôi lại đi Kon Tum, Đắk Lắk lo tết cho bà con”.
Hiệp sĩ Đại Thánh giá Lê Đức Thịnh tặng quà đồng bào dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn tại tỉnh Kon Tum
Lần hẹn gặp không thành cách nay hơn 1 năm, khi vừa xảy ra vụ nhóm đối tượng tấn công trụ sở UBND xã Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin (tỉnh Đắk Lắk), ông nhắn mấy dòng gửi chúng tôi: “Tôi đang ở trên này với bà con và thăm hỏi gia đình các anh em hy sinh”. Nhiều lần hẹn gặp từ đầu năm đến giờ cũng đều không thành, khi thì “Tôi đang đi tặng quà 100 hộ gia đình khó khăn ở Đồng Nai”, “Tôi đang đi thăm, tặng quà bà con ở Kon Tum”, lúc lại “Tôi vừa đi trao nhà tình thương ở Đồng Nai về”… Trong tháng 7 vừa qua, ông có lịch trình dày đặc các chuyến thăm, tặng quà thương binh, gia đình liệt sĩ ở khắp nơi.
Trong hành trình hơn 40 năm kết nối yêu thương, điều mà ông Lê Đức Thịnh dồn tâm sức nhiều nhất là bắc những nhịp cầu để mối quan hệ giữa các cấp chính quyền và giáo hội ngày một hiểu nhau hơn. Ông kêu gọi mọi người “Hãy bắc cầu, đừng xây tường”.
Xây cầu, không xây tường tức xóa bỏ những rào cản, chính là suy nghĩ và hành động của ông Lê Đức Thịnh ngay từ năm 1983, khi lần đầu tham gia Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, với vai trò phụ trách kinh tế, tài chính theo chủ trương cho các đoàn thể làm kinh tế. Ngoài tham gia tạo kinh phí cho các hoạt động của Trung ương MTTQ Việt Nam, ông còn tiếp cận với lãnh đạo các cơ quan Trung ương và MTTQ các cấp, kiến nghị những vấn đề từ thực tế còn có khoảng cách giữa Đảng, Nhà nước với Giáo hội Công giáo, cũng như giải quyết những vấn đề lịch sử còn tồn tại.
Đồng thời, ông còn tổ chức cho những nơi có người Công giáo trong các dòng tu làm kinh tế, để đưa sự hòa hợp giữa đạo và đời, giữa chính quyền với Công giáo. Từ đó, ông kết nối lãnh đạo Trung ương và các địa phương, trong đó có các đồng chí Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Thế Duyệt… đến thăm các cơ sở kinh tế của Giáo hội, góp phần tuyên truyền cho người Công giáo hiểu và ủng hộ các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Tại Đại hội Thi đua yêu nước lần 9, tháng 12-2015, khi được mời lên phát biểu, ông nói: “Nước ta đã phải chịu sự chia rẽ kéo dài, mà chia rẽ về lãnh thổ sẽ dẫn đến chia rẽ về lòng người; nay đã thống nhất được lãnh thổ phải tìm cách thống nhất lòng người”.
Thông qua hoạt động, phong trào của MTTQ, ông tìm cách tiếp cận các vị linh mục, giám mục, hồng y, tổng giám mục để lắng nghe, tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc trong giáo hội và giáo xứ ở các địa phương để đề đạt với MTTQ các cấp và lãnh đạo địa phương, cùng ngồi lại tháo gỡ, giải quyết từng vấn đề đặt ra.
“Cách để hóa giải những bất đồng tốt nhất là đối thoại. Đối thoại thì đòi hỏi chân thành, không phải người này ở trên, người kia ở dưới. Đơn cử như năm 2005, giữa lúc chính quyền địa phương và Tòa Giám mục Xuân Lộc còn một số điểm chưa thống nhất, tôi đã mời ông Phạm Thế Duyệt, khi đó là Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, về thăm Giáo phận Xuân Lộc. Cuộc gặp được diễn ra đúng ngày 30-4, trong bầu không khí trang trọng và thân tình giữa ông Phạm Thế Duyệt và Giám mục Giáo phận Xuân Lộc Nguyễn Chu Trinh. Cuộc gặp lịch sử đó đã hóa giải được nhiều điều vướng mắc, mở ra một kênh thông tin đối thoại, kết nối, ủng hộ nhau trong nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và cách đáp ứng tốt nhất nhu cầu sinh hoạt của các giáo xứ, họ đạo trong giáo phận và Giáo hội Công giáo”, ông Lê Đức Thịnh nhớ lại.
“Người Công giáo tốt cũng là công dân tốt”
“Ngày xưa, gia đình tôi nghèo lắm, bản thân phải làm thuê từ năm lớp 6. Từ hồi học lớp 2, tôi đã phải vác cuốc đi làm đồng phụ giúp gia đình. Đêm hôm trời mưa, trời gió ra đồng trồng bắp, 3 giờ sáng tôi đi bẻ bắp với bố. Bố chất một xe bắp 5 bao to đẩy ra chợ bán lúc 5 giờ sáng. Vừa ngang qua khu nghĩa địa thì thấy có tờ 500 đồng (tiền chế độ cũ) của ai đó làm rơi. Vớ được đồng tiền đó tôi mừng quá, vì cả xe bắp chỉ có 170 đồng. Tôi đem khoe với bố “Thầy ơi con lượm được tiền”. Ông bảo “Tiền gì, đưa xem. Con lượm ở đâu đấy”. “Con lượm ở đằng kia ạ”. “Con mang lại để đó rồi lấy cục đá nhỏ đè lên, ai làm rớt họ quay lại sẽ tìm lấy”.
Hiệp sĩ Đại Thánh giá Lê Đức Thịnh trao bảng tượng trưng tặng 5 ngôi nhà Đại đoàn kết cho hộ nghèo ở tỉnh Điện Biên
Câu chuyện về những năm tháng tuổi thơ khó nhọc được ông Thịnh nhớ mãi, và lấy đó làm bài học để rèn luyện, phấn đấu trở thành người công dân tốt, có ích cho đạo, cho đời. Ý niệm này đã hướng ông đi theo con đường “Người Công giáo tốt cũng là công dân tốt”, trở thành đường hướng cho mọi giáo dân trong Giáo hội Công giáo Việt Nam noi theo. Với ông, hành trình kết nối yêu thương, đoàn kết, hòa hợp dân tộc còn gắn với nỗ lực, vượt lên chính mình bằng những hoạt động, công việc đem lại giá trị thiết thực cho xã hội.
Từ một người làm công cho hết nông trại này đến doanh nghiệp kia trên vùng đất Tây Nguyên, cộng với sự nỗ lực học tập, nắm bắt thị trường, ông đã đứng ra liên kết, hợp tác với nhiều tổ chức, doanh nghiệp trong lĩnh vực vận tải hàng hóa, sản xuất cọc bê tông, xây dựng, bệnh viện… Lợi nhuận có được từ các hoạt động kinh tế này được ông dành hết cho hoạt động thiện nguyện, giúp đỡ người nghèo, gia đình chính sách, đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên, vùng núi cao các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Hà Giang…
Ở những nơi trên vùng xa xôi này, không khó bắt gặp hình ảnh Hiệp sĩ Lê Đức Thịnh lặn lội trong các bản làng vùng đồng bào các dân tộc để trao quà, tặng nhà tình thương; khảo sát đời sống, sinh hoạt của người dân rồi vận động kinh phí xây trường học, trường nghề; mời gọi chung tay chăm lo người nghèo, giúp trẻ khuyết tật… Tính ra, trong hành trình hơn 40 năm kết nối yêu thương, ông đã trao đến người khó ở khắp nơi trên quê hương mình đến hàng trăm tỷ đồng, giúp bao mảnh đời khó nhọc đổi đời, bao trẻ tật nguyền được học hành, làm người có ích cho xã hội, góp phần xây dựng, phát triển đất nước.
Bài viết “Vatican và Đảng Cộng sản Việt Nam: chuyển biến mới về ý thức hệ” của Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, đăng trên Tạp chí Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông ngày 27-3-2024, đã xác định: “Cần phải ghi nhận và hoan nghênh những nỗ lực của nhiều thế hệ người Công giáo yêu nước – những người đã dũng cảm đấu tranh vì tự do tôn giáo, vì sự hợp tác, xóa bỏ hiểu lầm giữa Công giáo với Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhờ quá trình đấu tranh gian khổ, quyết liệt cùng những hy sinh to lớn của những người như Linh mục Võ Thành Trinh, Linh mục Nguyễn Công Danh, Hiệp sĩ Đại Thánh giá Gioan Baotixita Lê Đức Thịnh… mà mối quan hệ giữa Công giáo và Đảng Cộng sản Việt Nam đạt được những thành tựu như ngày hôm nay”.
The ancient town has become a trailblazer in terms of waste management, waste separation at source, volume-based waste fees and a reduction in the use of plastic.
Local residents in Hội An began waste classification at source as a practical method of reducing the amount of rubbish heading to landfill. Photo courtesy of IUCN
HỘI AN – The ancient town of Hội An has become a trailblazer in waste management, leading the way in waste separation at source and tackling the over reliance on plastic.
Hội An has also introduced volume-based waste fees and established a Material Recycling Facility for organic waste collection.
The environmentally-friendly solutions have been instilled into the thinking of the local community so they are now something routine for residents and businesses, following a four-year pilot project of the initiatives.