Mảng tối lobby ngành dược – 2 kỳ

  • Kỳ 1: Biến giá thuốc thành chính trị
  • Kỳ 2: Thao túng lục địa già

***

Kỳ 1: Biến giá thuốc thành chính trị

(ĐTTCO) – Với việc vận động hành lang (lobby), các công ty dược có thể đập tan những làn sóng phản đối việc giá thuốc tăng cắt cổ, hoặc khiến các luật định về y tế, sức khỏe được ban hành theo hướng có lợi cho những sản phẩm thuốc của họ. Chỉ riêng tại Hoa Kỳ, mỗi năm ngành dược chi hàng trăm triệu USD cho hoạt động lobby.

Khi cựu CEO hãng dược Turing Pharmaceutical Martin Shkreli tuyên bố sẽ nâng giá thuốc điều trị HIV Daraprim lên gần 5.000%, ông đã biến giá thuốc kê đơn thành một vấn đề chính trị.

Mua chuộc ứng viên

Theo Đánh giá giá thuốc (MPRB) hàng năm của chính phủ Canada, giá thuốc ở Hoa Kỳ tăng bình quân 8%/năm trong giai đoạn từ 2006-2011, trong khi ở Canada hầu như không tăng. Năm 2006, giá thuốc ở Hoa Kỳ cao hơn 70% so với Canada, năm 2011 khác biệt này lên tới 100%, đặc biệt giá thuốc trị ung thư ở Hoa Kỳ đắt hơn 600 lần so với các nước khác.

Gần như ngay sau khi việc tăng giá thuốc Daraprim được công bố, khi còn ứng viên Tổng thống đảng Dân chủ bà Hillary Clinton giới thiệu một kế hoạch giảm giá thuốc kê đơn. Theo đó sẽ sửa luật để chính phủ có thể đàm phán giá trực tiếp với nhà cung cấp thuốc trong chương trình Medicare (bảo hiểm y tế).

Đối thủ cùng đảng của bà, nghị sĩ Bernie Sanders, gửi một bức thư cho Shkreli yêu cầu giải thích lý do tăng giá thuốc; trong thời điểm này khi còn là ứng viên đảng Cộng hòa ông Donald Trump gọi Shkreli là một “đứa trẻ hư hỏng”.

Tuy nhiên, theo Trung tâm Phản ứng chính sách (CRP) và Ủy ban Bầu cử liên bang (FEC), các công ty dược nằm trong số những ngành mạnh tay ủng hộ cho cuộc bầu cử với số tiền lên tới gần 1 triệu USD tính đến tháng 2 năm nay.

Và ứng viên nhận nhiều tiền ủng hộ của các công ty dược nhất chính là bà Clinton 336.416USD, chiếm hơn 1/3 tổng số tiền quyên góp của ngành dược cho cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 2016. Ứng viên nhận nhiều thứ hai là Jeb Bush, nhưng ông này chỉ nhận chưa tới một nửa so với bà Clinton. Ông Trump là người nhận chỉ với 1.010USD, đủ mua 1 viên Daraprim.

Ngành dược đứng thứ 15 trong những ngành “quảng đại” nhất trong việc ủng hộ cuộc bầu cử 2016, trong khi ngành y tế nói chung là ngành rộng tay thứ 3 trong việc đóng góp cho bầu cử năm 2016 với tổng cộng 9,5 triệu USD tính đến tháng 2. Bà Clinton cũng là người nhận nhiều đóng góp nhất trong nhóm này với hơn 3,5 triệu USD. Ứng viên nhận nhiều thứ hai là Ted Cruz với 1,1 triệu USD. Tuy nhiên, những đóng góp này không bao gồm những khoảng tiền các công ty dùng để lobby quốc hội. Thí dụ, đại gia dược phẩm Pfizer đã chi hơn 10 triệu USD cho các nỗ lực lobby vào năm ngoái.

Theo CRP, các hãng dược chi 51 triệu USD cho các chính trị gia trong cuộc bầu cử liên bang năm 2012, và gần 32 triệu USD trong cuộc bầu cử năm 2014. Gã khổng lồ Pfizer đứng ở vị trí số 1 trong các công ty dược đóng góp cho cuộc bầu cử liên bang năm 2014 với 1,5 triệu USD, kế đó là Amgen với 1,3 triệu USD và McKesson Corp với 1,1 triệu USD.

Cả 3 công ty này đều ủng hộ các chính trị gia Cộng hòa nhiều hơn Dân chủ trong năm đó. 1 triệu USD là số tiền khổng lồ, nhưng chẳng thấm thía gì với lương hàng năm của các CEO trong những công ty này. Chẳng hạn, CEO Pfizer Ian Read lãnh lương hơn 23 triệu USD năm 2014, còn CEO Amgen Robert Bradway nhận 14 triệu USD.

Theo thống kê của CRP, top 20 công ty dược lớn nhất Hoa Kỳ và 2 liên đoàn lớn nhất ngành dược ở nước này là Pharmaceutical Research and Manufacturers of America (PhRMA) và Biotechnology Industry Organization (BIO), đã lobby với ít nhất 1.600 luật định từ năm 1998-2004.

Hơn cả dầu khí và vũ khí

Các công ty dược Hoa Kỳ chi 900 triệu USD cho hoạt động lobby từ năm 1998-2005, cao hơn tất cả ngành khác. Trong cùng kỳ, họ đóng góp 89,9 triệu USD cho các ứng viên liên bang và các đảng phái chính trị, trong đó ủng hộ các đảng viên Cộng hòa nhiều gấp 3 lần các đảng viên Dân chủ.

Theo Trung tâm Liêm chính Công (CPI), từ tháng 1-2005 đến tháng 6-2006, ngành dược chi xấp xỉ 182 triệu USD cho hoạt động lobby liên bang. Ngành công nghiệp này có 1.274 nhà lobby (lobbyist) đăng ký ở Washington D.C. Còn theo dữ liệu của OpenSecrets.org, dược là ngành chi mạnh tay nhất để gây ảnh hưởng đối với các nhà làm luật, với tổng cộng 2,6 tỷ USD từ năm 1998-2012.

Để so sánh, ngành dầu khí và các hiệp hội của họ chi 1,4 tỷ USD để lobby quốc hội trong cùng thời gian, trong khi ngành quốc phòng và hàng không chỉ chi 662 triệu USD, bằng 1/4 con số của ngành dược.

PhRMA đã chi gần 150 triệu USD cho hoạt động lobby kể từ năm 2008, đứng thứ 6 trong số những tổ chức chi tiền cho lobby nhiều nhất Hoa Kỳ. 9 tháng năm 2015, liên đoàn này đã chi hơn 10 triệu USD lobby. Pfizer nằm trong số 25 công ty lobby nhiều nhất Hoa Kỳ, với 94 triệu USD kể từ năm 2008 và 8,5 triệu USD chỉ trong năm 2014.

Các hãng dược cũng chi tiền để lobby việc ngăn chặn chính phủ đàm phán giá trực tiếp trong chương trình Medicare. Các nhà lobby ngành dược từ lâu đã lớn tiếng chống lại kế hoạch đàm phán giá của bà Clinton đưa ra trong chiến dịch tranh cử tổng thống, cho rằng nó “đóng cửa đối với sáng tạo và làm đình trệ những chương trình nghiên cứu chống lại những căn bệnh mà người bệnh sợ hãi nhất”.

Tăng mạnh giá thuốc để bù vào lobby

Một trong những chiến tích vẻ vang của các lobbyist ngành dược là việc thông qua Đạo luật Cải thiện và hiện đại hóa thuốc kê đơn (MPDIMA) năm 2003.

Đạo luật này ngăn cản chính phủ trực tiếp đàm phán giá với các công ty dược cung cấp những loại thuốc theo toa cho chương trình Medicare. Thay vào đó, việc đàm phán giá cả được tiến hành giữa nhà sản xuất và các nhà quản lý lợi ích dược đang cung cấp theo hợp đồng với Medicare. Theo ước tính của Văn phòng Ngân sách Quốc hội năm 2010, mức giảm giá trung bình các nhà quản lý lợi ích dược đàm phán ở mức 14%.

Theo CRP, từ đầu năm 2003, khi MPDIMA đang trong giai đoạn thai nghén, các công ty dược đã chi rất mạnh tay để vận động cho đạo luật này.

Từ tháng 1-2003, các nhà sản xuất thuốc và bán sỉ đã chi 147,5 triệu USD cho các nghị sĩ và ứng viên tổng thống. Trong đó, 62% rơi vào túi các chính trị gia Cộng hòa hoặc bảo thủ, số còn lại vào các đảng viên Dân chủ. 4 đại biểu hoặc cựu đại biểu quốc hội đã nhận tổng cộng hơn 1 triệu USD tiền lobby của ngành dược gồm có Richard Burr (1,3 triệu USD), cựu Chủ tịch Hạ viện John Boehner (1,2 triệu USD), Chủ tịch Ủy ban Tài chính Thượng viện Orrin Hatch (1,1 triệu USD) và Chủ tịch Ủy ban Thương mại và Năng lượng Hạ viện Fred Upton (1 triệu USD).

Biện minh việc giá thuốc kê đơn ở Hoa Kỳ đắt đỏ, các công ty dược nói phải tốn kém nhiều chi phí cho các chương trình nghiên cứu và phát triển, nhưng các nhà chỉ trích cho rằng việc phát triển thuốc chỉ chiếm phần nhỏ lợi nhuận.

(còn tiếp)

Văn Cường

***

Mảng tối lobby ngành dược (Kỳ 2)

 Thao túng lục địa già
(ĐTTCO) –  Tại châu Âu, các công ty dược cũng là một thế lực lớn, với mức chi cho vận động hành lang (lobby) trong năm 2015 lên tới 40 triệu EUR, cao hơn 15 lần so với các nhóm lobby cho xã hội dân sự và tiêu dùng nói chung.

Đội ngũ hùng hậu

Có hàng trăm công ty lobby hoạt động ở Brussels (Bỉ), cung cấp dịch vụ cho những công ty và hiệp hội doanh nghiệp muốn góp tiếng nói vào quá trình hình thành chính sách ở EU. Những công ty này có sự trợ giúp của nhiều cựu quan chức EU, những người có mối quan hệ rộng rãi với các nhà hoạch định chính sách ở lục địa già.

Tuy nhiên, trong số hàng trăm công ty đó, chỉ có số ít chuyên vận động hành lang cho các vấn đề liên quan đến dược phẩm (thuốc, y tế, sở hữu trí tuệ…). Theo Transparency Register, khoảng 25 công ty lobby có ít nhất 1 khách hàng là các công ty dược, 13 công ty trong số đó ít nhất 4 khách hàng dược và 5 công ty trong số đó có ít nhất 10 khách hàng là công ty dược.

Top 10 công ty lobby ngành dược có doanh thu bình quân gần 8,1 triệu EUR trong năm 2015, một con số tăng trưởng chóng mặt so với mức 1 triệu EUR cách đó 3 năm. Top 10 công ty dược lớn nhất cho biết đã chi cho lobby nhiều hơn 6 triệu EUR so với năm 2012, trong đó 8 công ty lớn nhất chi nhiều hơn năm 2012 gấp 7 lần.

Liên đoàn Công nghiệp dược châu Âu (EFPIA) là nhóm lobby ngành dược chủ chốt ở châu Âu và chi mạnh tay nhất cho hoạt động lobby. Thành viên của nó gồm các công ty dược lớn và quyền lực nhất trên thế giới hiện nay, như GlaxoSmithKline, Pfzer, Eli Lilly, Astra Zeneca, Baxter, Johnson & Johnson, Novartis, Shire, Sanof và Roche.

EFPIA đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các chính sách liên quan đến ngành dược ở EU. Điều này thể hiện qua con số rất lớn những cuộc gặp gỡ hàng năm với các ủy viên EU đằng sau những cánh cửa đóng kín, số tiền hàng triệu EUR chi tiêu lobby và con số công ty, cố vấn lobby họ thuê. Tài liệu được tiết lộ cho thấy từ tháng 11-2014 đến tháng 3-2015, EFPIA đã tổ chức hơn 50 cuộc gặp gỡ với các quan chức cấp cao trong Ủy ban châu Âu (EC).

 Hợp doanh công-tư lớn nhất EU

Đó là hợp doanh công-tư trị giá nhiều tỷ EUR giữa EC và EFPIA có tên gọi Sáng kiến sáng tạo thuốc (IMI), nhắm đến việc thúc đẩy phát triển các loại thuốc tốt hơn và an toàn hơn cho bệnh nhân. Nó cũng nhằm hỗ trợ các dự án hợp tác nghiên cứu và xây dựng những mạng lưới các chuyên gia nhằm thúc đẩy sáng tạo trong ngành dược phẩm châu Âu. Tuy nhiên, đằng sau những lời lẽ đẹp đẽ đó là việc EC bị thao túng bởi ngành dược theo hướng có lợi cho các đại gia dược phẩm.

IMI hiện đang ở giai đoạn 2, với ngân sách 3,3 tỷ EUR từ năm 2014-2024. Trong đó, 1,6 tỷ EUR từ tiền đóng thuế của người dân và 1,4 tỷ EUR từ các công ty thành viên EFPIA. Giai đoạn 1 của IMI bắt đầu từ năm 2008, với ngân sách 2 tỷ EUR, trong đó 1 tỷ đến từ ngân sách của EU và 1 tỷ đến từ các công ty “tốt bụng” trong EFPIA.

Một điều gây tranh cãi là dù hoạt động bằng ngân sách của EU và EFPIA, nhưng những loại thuốc phát minh ra trong chương trình IMI hầu hết đều thuộc quyền sở hữu trí tuệ của các đại gia dược phẩm. Tức người đóng thuế châu Âu phải bỏ tiền ra cho IMI nghiên cứu chế tạo thuốc, rồi họ lại phải bỏ tiền để mua thuốc độc quyền giá cao được sáng chế từ chương trình này.

 

Nhắm đến TITP

Trong bảng kê khai minh bạch của mình (ngày 11-4-2015), EFPIA cho biết chi phí lobby năm 2014 hơn 5 triệu EUR. Còn trong bảng kê khai năm 2010, con số này chỉ hơn 50.000EUR. Chỉ 1 năm sau (2011), con số này tăng 10 lần lên 571.900EUR và tiếp tục tăng mạnh cho đến nay. So với năm 2010, chi phí lobby của EFPIA đã gia tăng gấp… 100 lần!

EFPIA là khách hàng VIP của 6 công ty lobby, tính đến 13-5-2015, gồm Gplus Ltd (với chi phí 100.000-199.999EUR), Vital Transformation (50.000-99.999EUR), Burson Marsteller (25.000-49.999EUR), và FIPRA International Ltd (10.000-24.999EUR) năm 2014; và HCS Sprl (dưới 9.999EUR), và APCO Worldwide (dưới 9.999EUR) năm 2013.

Ngoài ra, EFPIA hiện cũng là thành viên hoặc đại diện của ít nhất 4 nhóm chuyên gia trong EC.

Vì sao có sự gia tăng đột biến này? Theo báo Đức Spiegel, một con số kỷ lục các bằng phát minh dược phẩm sẽ hết hạn trong vòng vài năm tới. Khi đó, một lượng lớn thuốc độc quyền, vốn giúp ngành công nghiệp dược phẩm được xếp vào lĩnh vực lợi nhuận nhiều nhất thế giới, sẽ hết hạn độc quyền và trở thành thuốc giá rẻ. Vì vậy, các hãng dược đã cố vận động để bảo vệ và mở rộng quyền sở hữu trí tuệ của họ đối với các loại thuốc đó.

Ngoài ra, các hãng dược cũng cố thao túng những chính sách của Hiệp định Đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP) đang được đàm phán giữa Hoa Kỳ và EU, tìm cách để hiệp định này có lợi nhất cho ngành dược. EFPIA và các công ty thành viên cho đến nay đã tổ chức nhiều cuộc gặp gỡ với các nhà hoạch định chính sách ở cả 2 bên bờ Đại Tây Dương, cũng như tài trợ cho nhiều cuộc bàn bạc giữa phái đoàn của 2 bên để vận động cho những chính sách có lợi nhất cho ngành dược.

 

Chi phí lobby của EFPIA tăng gấp 100 lần trong 5 năm.

 

Cuộc chiến thất bại

Tuy nhiên, với việc ông Donald Trump, người phản đối các hiệp định tự do thương mại, vừa đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ, khả năng TTIP thất bại khá cao. Một trong những “trận chiến lobby” gây cấn nhất của ngành dược châu Âu thời gian gần đây là việc tác động đến Hướng dẫn Các sản phẩm thuốc lá (TPD) của châu Âu.

TPD có hiệu lực từ tháng 5-2014 sau khi được Nghị viện châu Âu (EP) và EC phê duyệt vào tháng 2 và tháng 3 cùng năm. Hướng dẫn này được các công ty dược đặc biệt chú ý vì nó liên quan trực tiếp đến vấn đề sức khỏe, ngoài ra nó còn được thêm vào 1 sản phẩm mới là thuốc lá điện tử.

Thuốc lá điện tử có chứa nicotine nhưng không có lá thuốc, vì vậy trở thành một mặt hàng lớn của ngành dược như một liệu pháp thay thế chứng nghiện nicotine (NRT) nhằm giúp người nghiện thuốc lá có thể cai thuốc lá, cũng như các loại kẹo nicotine.

Thị trường cai thuốc lá trước đó nằm dưới sự thao túng của những thương hiệu như Nicotinell của Novartis, NiQuitin của GlaxoSmithKline và Nicorette của Pfzer. Tuy nhiên, những sản phẩm này đã chứng kiến doanh số sụt giảm thê thảm kể từ khi thuốc lá điện tử xuất hiện.

Vì vậy, các đại gia dược muốn các cơ quan chức năng quy định thuốc lá điện tử là một loại dược phẩm, hòng loại các nhà sản xuất thuốc lá điện tử nhỏ lẻ ra khỏi cuộc chơi (do chi phí đăng ký dược phẩm đắt đỏ) để họ dễ dàng thao túng. Và dưới tác động lobby của các công ty dược, dự thảo TPD lúc đầu đã liệt kê thuốc lá điện tử như một loại dược phẩm. Tuy nhiên, điều này đã vấp phải sự phản ứng gay gắt của công chúng và phi vụ này đã thất bại.

Văn Cường

1 bình luận về “Mảng tối lobby ngành dược – 2 kỳ

Bình luận về bài viết này